Các bài suy niệm CHÚA NHẬT 3 Mùa Chay - Năm A

Các bài suy niệm CHÚA NHẬT 3 Mùa Chay - Năm A
Sau nửa ngày hành trình từ Giuđê về Galilê, Đức Giêsu nghỉ mệt bên một giếng nước ở vùng Samari. Ngài vừa đói vừa khát, giữa cái nắng ban trưa. Các môn đệ vào thành mua thức ăn. Còn lại một mình Đức Giêsu ngồi bên bờ giếng. Chính nơi đây đã diễn ra cuộc gặp gỡ giữa Ngài và người phụ nữ Samari vốn bị coi là ô nhơ.

Các bài suy niệm CHÚA NHẬT 3 Mùa Chay - Năm A

Lời Chúa: Xh 17,3-7; Rm 5,1-2.5-8; Ga 4, 5 - 42

 

Tài liệu về Lời Chúa

***********************************************

Bên bờ giếng Giacob

 

Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, chúng ta cùng nhau chia sẻ hai ý tưởng:

 

Ý tưởng thứ nhất đó là nước

 

Mỗi khi đi làm thuỷ lợi giữa đồng không mông quạnh với cái nắng như thiêu như đốt, chúng ta mới thấy quý những giọt nước hiếm hoi.

 

Dân Do Thái trong Cựu Ước cũng đã trải qua kinh nghiệm ấy. Khi băng qua sa mạc cát nóng để trở về miền đất Hứa, họ đã hiểu được nước gắn liền với sự sống của họ như thế nào. Đồng thời qua dòng nước vọt lên từ tảng đá Horeb dưới cây gậy của Maisen, Chúa đã chứng tỏ Ngài là Đấng đem lại sự sống cho họ.

 

Với Chúa Giêsu thì khác, từ thứ nước bình thường dưới lòng giếng, Ngài đã giới thiệu với người phụ nữ Samaria một thứ nước đem lại sự sống vĩnh cửu. Thực vậy, đã từ lâu người Do Thái và người Samaria coi nhau như những kẻ thù truyền kiếp. Dưới mắt dân Do Thái thì người Samaria bị coi như một thứ ngoại đạo và uế tạp cần phải xa tránh, thế mà qua đoạn Tin Mừng vừa nghe Chúa Giêsu đã vượt qua ranh giới thù hận như một dòng nước tràn bờ đem lại sự xanh tươi cho những mảnh đất khô cằn. Ngài đã xin người phụ nữ Samaria chút nước uống. Hành động của Ngài đã gây nên sửng sốt và từ sự sửng sốt ấy, Ngài đã làm trổi dậy một sự sống mới.

 

Chúa Giêsu đã chứng tỏ sứ mạng của mình là được sai đến với những con chiên lạc. Cuộc đối thoại của Chúa Giêsu đã giúp người phụ nữ nhận ra tình trạng bất chính của mình, để rồi cuối cùng nàng đã xác tín Ngài chính là Đấng cứu thế. Chúa Giêsu đã khởi đầu bằng cách xin nàng cho Người uống nước, nhưng rồi cuối cùng chính nàng lại là người được lãnh nhận nước ban sự sống.

 

Ý tưởng thứ hai đó là nơi thờ phượng Chúa.

 

Người Samaria có đền thờ của mình tại núi Sichem. Trong khi đó người Do Thái lại khẳng định đền thờ của họ tại Giêrusalem mới là nơi thờ phượng Thiên Chúa đích thật, bởi vì đó mới chính là nơi Thiên Chúa ngự trị giữa dân Ngài. Vậy ai đúng. Người Samaria hay người Do Thái? Cuộc tranh luận có lẽ đã kéo dài nhiều tháng và nhiều năm, nhưng vẫn không có kết luận. Họ không phải chỉ tranh luận suông, mà hơn thế nữa, người Do Thái còn khích bác dân Samaria là đã theo đuổi một thứ tôn giáo lai căng. Còn người Samaria thì có lần đã chơi khăm bằng cách rắc xương người chết vào nơi thờ kính của dân Do Thái, để làm cho nơi đó ra uế tạp, không còn thích hợp cho công việc tế tự.

 

Người phụ nữ Samari hẳn muốn nhờ Chúa Giêsu đứng ra làm trọng tài giải quyết vì nàng nhìn nhận Ngài là người của Thiên Chúa, đã biết được những chuyện thầm kín của đời nàng. Thế nhưng, Chúa Giêsu đã nhân dịp này, mạc khải cho nàng biết phải thờ phượng Thiên Chúa trong tinh thần và trong chân lý, bằng cách nhận biết Thiên Chúa là Cha. Chính sự thờ phượng Thiên Chúa là Cha và việc đặt mình vào trong mối quan hệ cha con với Thiên Chúa mới là việc thờ phượng mà Thiên Chúa hằng mong mỏi.

 

Còn chúng ta thì sao? Liệu chúng ta đã thực sự yêu mến Chúa bằng tất cả trái tim và tâm hồn của mình, hay chúng ta đang còn mải mê chạy theo những nghi thức và những biểu dương bên ngoài?
 


 

Nhịp cầu thiêng liêng

 

ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.

 

Từ khi cầu Mỹ Thuận được đưa vào sử dụng, con đường về miền Tây như ngắn lại, đôi bờ sông Tiền gần gũi nhau hơn. Đời sống thần linh và đời sống phàm trần cũng như hai bờ sông cách xa vời vợi. Cần có những nhịp cầu nối liền dòng sông thiêng liêng giúp con người đi về gặp gỡ Thiên chúa.

 

Hôm nay, khi mở đầu câu chuyện với người phụ nữ Samaria, Đức Giêsu đã bắc những nhịp cầu nối liền dòng sông ngăn cách. Thái độ gần gũi của Người là nhịp cầu xoá đi biên giới ngăn cách chủng tộc, tôn giáo. Lời Người chính là nhịp cầu dẫn vào đời sống thần linh.

 

Đức Giêsu gặp người phụ nữ bên bờ giếng nước. Người phụ nữ nhìn Đức Giêsu bằng ánh mắt khinh miệt. Dưới mắt chị, đó chỉ là một gã Do Thái bẩn thỉu. Còn tệ hơn thế, anh chàng Do Thái này nghèo mạt rệp, đang đói khát, mệt mỏi rã rời, chỉ chờ chực xin ăn, xin uống. Chị hợm mình, vì chị có tất cả. Chị có giếng nước của tổ tiên. Đối với người Sêmít, có nước là có tất cả. Ở giữa vùng sa mạc mênh mông, nơi nào có nước, nơi ấy có sự sống. Vì nhờ có nước, cây cỏ mọc lên xanh tươi, gia súc có lương thực, con người mới sống được. Ai chiếm được nguồn nước, người ấy lập tức trở nên giàu có.

 

Người phụ nữ có giếng nước, có cả bình múc nước. Chị còn có gia đình. Chị còn có đền thờ vững chắc xây dựng trên núi Garidim, trách nào chị chẳng hợm mình.

 

Nhưng Đức Giêsu đã phá tan sự an thân giả tạo của chị. Người cho chị thấy giếng nước của chị chỉ là phù du, vì giếng nước ấy không cho nước hằng sống. Người cho chị thấy hạnh phúc gia đình mà chị đang có chỉ là hư ảo, vì hạnh phúc ấy xây dựng trên chỉ một mối duyên hờ. Người cho chị thấy niềm tin của chị vào đền thờ chỉ là ngụy tín, vì đền thờ chỉ là gạch đá vô hồn, không có Chúa ngự bên trong.

 

Trong phút chốc, chị trở nên thật nghèo nàn. Trước kia chị tưởng mình có tất cả. Nay chị thấy mình trắng tay. Trước kia chị tưởng mình giàu có. Nay chị nhận thức rõ mình thật nghèo nàn. Bóc đi tất cả những lớp vỏ phù du bọt bèo, chị thấy mình trơ trụi, khốn cùng. Nhưng từ đáy vực khốn cùng ấy một niềm tin nhen nhúm, một mạch suối trào dâng.

 

Chị chợt tỉnh ngộ. Những thứ mà trước kia chị tưởng là thành lũy che chở cuộc đời, hoá ra chỉ là những tảng đá ngăn chặn nguồn suối. Tháo gỡ đá đi rồi, mạch suối dào dạt trào tuôn. Những thứ mà trước kia chị tưởng là nơi nương tựa êm ấm, hoá ra chỉ là tổ kén giam kín đời sâu. Trút bỏ được lớp vỏ xù xì cũ kỹ, sâu nay hoá bướm đẹp lộng lẫy, tự do bay tung tăng khắp chốn.

 

Thì ra, của cải, dục vọng, tôn giáo vụ hình thức là những tấm màn che mắt, không cho chị nhận ra Đấng Cứu Thế. Ta hãy trở lại phút đầu tiên, khi Đức Giêsu ngỏ lời xin nước. Lúc đó, bị các tấm màn che mắt, chị chỉ thấy một anh chàng Do Thái xấu xa, đói rách: "Ông là Do Thái mà lại xin nước tôi ư? ". Nhưng Lời Chúa như lưỡi gươm sắc bén, phá tan màn mây mù che mắt chị. Nhát gươm thứ nhất vung lên, một mảnh vảy mắt rơi xuống. Chị nhìn ra người đối diện "cao cả hơn tổ phụ Giacóp". Nhát gươm thứ hai vung lên, một mảnh vảy nữa rơi xuống. Chị nhận ra Người là "một tiên tri". Một nhát nữa vung lên, mảnh vảy cuối cùng rơi xuống. Chị nhận biết Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế. Và chị tin vào Người.

Niềm tin trào dâng. Hạnh phúc trào dâng. Chị quên cả múc nước, quên cả bình, chạy về làng báo tin vui. Chị để quên chiếc bình, vì chiếc bình từ nay trở nên vô dụng. Cùng với chiếc bình, chị bỏ lại cả giếng nước, cả người chồng hờ, cả ngôi đền thờ trống rỗng.

 

- Lời Chúa như lưỡi gươm sắc bén chẻ đôi đời chị. Mảnh đời cũ để lại bên giếng, kho tàng của trần gian. Mảnh đời mới ngụp lặn trong dòng suối đức tin, kho tàng thiên quốc.

 

- Lời Chúa là ngọn đèn soi đường. Nên chị bước đi những bước lẹ làng, vững chắc hướng về sự sống mới

 

- Lời Chúa là chiếc cầu đưa chị vào đời sống thần linh. Chị bỏ lại bên này cầu chiếc bình múc nước, vì bên kia cầu chị đã có mạch nước trường sinh. Chị bỏ lại bên này cầu mối duyên hờ, vì bên kia cầu chị đã găp được tình yêu đích thực. Chị bỏ lại bên này cầu ngôi đền thờ trống rỗng, vì bên kia cầu chị gặp được Đấng chị phải tôn thờ trong tinh thần và chân lý. Chị như cánh đại bàng bay bổng trên trời cao với những đường bay rất đẹp.

 

Về đại bàng, Cha Anthony de Mello kể một câu chuyện rất sâu sắc. Một người nông dân vào rừng, lượm được một trứng đại bàng. Anh đem về cho ấp chung với trứng gà. Ít lâu sau đại bàng nở ra cùng lũ gà con. Nó cứ tưởng mình là gà. Suốt ngày theo gà mẹ bới đất mổ sâu. Nó cứ sống kiếp gà như thế cho đến lúc già. Một hôm nó thấy trên trời xanh một con chim lớn khủng khiếp, cánh giang rộng như che kín cả bầu trời. Con chim bay thật cao và có những đường lượn thật là đẹp đẽ. Đại bàng ta kinh khiếp hỏi bác gà trống: "con gì mà khủng khiếp quá nhỉ". "Đó là đại bàng. Đại bàng thuộc về trời cao. Chúng ta thuộc về đất thấp. Chúng ta chỉ là gà". Đại bàng cứ sống kiếp gà như thế cho đến chết.

Người phụ nữ là cánh đại bàng. Chị đã trút bỏ mọi gánh nặng kéo trì đôi cánh, nên chị bay vút lên cao. Còn ta vẫn chỉ là loài gà. Ta vẫn còn bên này cầu. Những gì người phụ nữ bỏ lại, ta ôm lấy mang về. Ta vẫn còn ôm ấp những giấc mơ trần tục. Của cải, dục vọng vẫn là những tảng đá ngăn chặn dòng nước đức tin. Những ngụy tín, những ảo tưởng, những thứ đạo đức hình thức, giả hiệu vẫn còn che chắn không cho ta nhận biết chính mình. Và vì thế ta không bao giờ gặp được Chúa.

 

Xin lời Chúa như lưỡi gươm tách bạch trắng đen, để ta dứt lìa tội lỗi, thoát khỏi thói an tâm giả tạo, thói đạo đức hình thức. Xin lời Chúa tháo đi những tảng đá trì trệ, để dòng suối tin yêu khai thông, để nước mắt sám hối tuôn trào rửa sạch hồn ta. Và để tình yêu bừng nở đem cho ta hạnh phúc chân thật.

 

GỢI Ý CHIA SẺ

 

1) Đức Giêsu đã thành công trong việc đưa người phụ nữ Samaria về nhận biết chân lý. Ta có thể học hỏi được gì ở nơi Người để thành công trong việc truyền giáo?

 

2) Đang thoả mãn với vật chất, người phụ nữ Samaria chợt thấy thiếu thốn về mặt tâm linh. Đây là một cuộc hoán cải quan trọng, là một ơn Chúa ban. Bạn đã bao giờ được ơn sám hối để thấy khao khát đời sống tâm linh chưa?

 

3) Đã bao giờ bạn cảm thấy Đức Giêsu là nguồn suối trong lành, là nguồn mạch hạnh phúc của bạn?

 


 

Cho Tôi xin chút nước uống  

 

(Trích trong ‘Manna’)

 

Suy Niệm

 

Sau nửa ngày hành trình từ Giuđê về Galilê, Đức Giêsu nghỉ mệt bên một giếng nước ở vùng Samari. Ngài vừa đói vừa khát, giữa cái nắng ban trưa. Các môn đệ vào thành mua thức ăn. Còn lại một mình Đức Giêsu ngồi bên bờ giếng. Chính nơi đây đã diễn ra cuộc gặp gỡ giữa Ngài và người phụ nữ Samari vốn bị coi là ô nhơ.

 

Đức Giêsu bắt đầu gieo hạt để chuẩn bị cho mùa gặt mai sau của các môn đệ. "Cho tôi chút nước uống."

Đức Giêsu mở đầu cuộc đối thoại bằng một lời nài xin. Ngài chẳng sợ thú nhận sự thiếu thốn của mình.

 

Xin nước uống là làm một cuộc cách mạng, là bắc một nhịp cầu qua vực sâu ngăn cách hai dân tộc Samari và Do thái vốn dĩ đã thù ghét và xa lánh nhau từ bốn thế kỷ. Chẳng ai hiểu nổi một bậc thầy như Đức Giêsu lại nói chuyện và xin nước một phụ nữ Samari. Đức Giêsu đã cúi mình phá bỏ những hàng rào để xây dựng một cuộc đối thoại đích thực và bình đẳng.

 

"Cho tôi chút nước uống." Ngài là người xin nước trước khi là người cho... Chúng ta cũng có nhiều điều phải xin nơi chính những người cần chúng ta giúp đỡ.

 

Đức Giêsu cho thấy Ngài có một thứ nước lạ lùng, uống vào không còn khát nữa. Người phụ nữ vội vã xin Ngài thứ nước kỳ diệu đó. Chị đâu ngờ chính mình đã bắt đầu được nếm rồi. Nước đó chính là Lời của Đức Giêsu, Lời vén mở dần dần con người thâm sâu của Ngài.

Đức Giêsu cho thấy Ngài biết rõ gia cảnh của chị. Cái biết của Ngài không nhằm soi mói, nhưng để cảm thông. Cái biết của Ngài về những điều riêng tư thầm kín đã khiến chị coi Ngài là một ngôn sứ đáng tin. Từ đó, chính chị gợi lên vấn đề tôn giáo, một vấn đề khiến chị rất bận tâm; Chính chị nói lên niềm mong đợi của mình về Đấng Mêsia, Đấng sẽ đến dạy dỗ mọi sự (Ga 4,25); rồi cũng chính chị đã bỏ vò nước lại mà hân hoan chạy đi giới thiệu Đức Giêsu cho đồng bào.

 

Chị đã tìm thấy thứ nước tuyệt diệu nơi Đức Giêsu. Ngài từ từ tỏ mình cho chị: "Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây." Không thấy nói đến chuyện Đức Giêsu ăn hay uống. "Lương thực của Thầy là thi hành ý Đấng đã sai Thầy." Đức Giêsu chỉ đòi một điều, đó là nuôi dưỡng nhân loại. Ngài chỉ khát một điều, đó là ban nguồn nước sự sống. Chúng ta có dám chia sẻ cơn đói khát của Ngài không?

 

Gợi Ý Chia Sẻ

 

- Khi chiêm ngắm Đức Giêsu trong đoạn Tin Mừng trên đây, bạn thấy đâu là những thái độ cần thiết mà người rao giảng Lời Chúa hôm nay cần có?

 

- Con người đói khát cơm gạo và nước uống tinh khiết. Theo ý bạn, giới trẻ hôm nay đói khát điều gì hơn cả (tình bạn, tình yêu, lòng tin, niềm hy vọng, ý nghĩa cho cuộc sống, sự trung thực...)? Kitô giáo có thể giúp gì cho giới trẻ?

 

Cầu Nguyện

 

Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết con, xin cho con biết Chúa. Xin cho con chỉ khao khát một mình Chúa, quên đi chính bản thân, yêu mến Chúa và làm mọi sự vì Chúa. Xin cho con biết tự hạ, biết tán dương Chúa và chỉ nghĩ đến Chúa.

Ước gì con biết hãm mình và sống trong Chúa. Ước gì con biết nhận từ Chúa tất cả những gì xảy đến cho con và biết chọn theo chân Chúa luôn.

Xin đừng để điều gì quyến rũ con, ngoài Chúa.

Xin Chúa hãy nhìn con, để con yêu mến Chúa.

Xin Chúa hãy gọi con, để con được thấy Chúa.

Và để con hưởng nhan Chúa đời đời. Amen. (Thánh Âu-tinh)

 


 

Chúa hiện diện đó, khi ta khát

 

(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)

 

Chúng ta đang chứng kiến Chúa Giêsu khởi đầu đời sống công khai. Người rời xứ Giuđêa, vì ở đó sự thành công của Người làm cho nhóm Biệt phái tức giận. Trong giai đoạn này, Chúa không muốn đi vào cuộc tranh chấp mà bọn họ sửa soạn cho Người, nên Người đi qua Samaria để lên Galilêa. Tại Samaria xảy ra một cuộc gặp gỡ mở màn cho việc rao giảng cho dân ngoại toàn thế giới. Chúa Giêsu dừng chân ở núi Garidim. Từ 400 năm, đó là Núi Thánh của dân bản xứ. Vì kình địch với người Do Thái, họ đã biến ngọn núi này thành một nơi cạnh tranh với Giêrusalem. Đi đường xa mệt mỏi, Chúa Giêsu ngồi xuống bên bờ giếng Giacóp, trong lúc môn đệ đi vào làng mua thức ăn. Trong cuộc đối thoại với người đàn bà ra giếng múc nước, ta thấy ngay ý Người muốn dùng nước làm biểu tượng để mặc khải sứ mệnh và danh tính Người. Câu chuyện người đàn bà xứ Samaria thường được dẫn ra làm tỉ dụ về khoa sư phạm tuyệt vời của Chúa đối với con người. Chúa thâm nhập vào trong tâm trí con người, để làm nổ tung các giới hạn của nó, mở nó ra đón nhận chân lý cao cả hơn bắt nguồn từ Thiên Chúa, chớ không phải từ con người.

Trước tiên, Chúa Giêsu gợi óc tò mò tìm hiểu của người phụ nữ. Muốn thế, người đặt mình vào mức tầm thường của đời sống hằng ngày, vào mức của công việc múc nước vất vả. Người làm cho linh cảm rằng không phải chỉ cần có thứ nước đó để sống mà thôi, không phải chỉ có những thực tại vật chất mới là quan trọng trong đời sống. Do đó phản ứng đầu tiên của người đàn bà Samaria là: xin ông cho tôi thứ nước ban sự sống. Phản ứng lẫn lộn vừa ước muốn thoát khỏi sự vất vả thường ngày vừa lòng khao khát biết Chúa Giêsu muốn nói gì. Chúa làm cho bà thắc mắc hoàn toàn khi thấy rằng Người nhìn tận đáy lòng bà. Bà hãy về gọi chồng lại đây. Hoàn cảnh bây giờ trở nên nan giải cho người phụ nữ, và bà lái câu chuyện sang hướng khác. Phản ứng rất tự nhiên.

 

Về việc thờ phượng tại Giêrusalem thì sao? Chúa Giêsu theo bà ‘đi vòng quanh’, lợi dụng cơ hội để nói thế nào là tôn thờ thật sự. Càng lúc càng thắc mắc thêm, bà nghĩ còn có cách nói tới việc Đấng Cứu Thế sẽ đến để thoát khỏi cuộc đàm luận này. Đó là lúc Chúa Giêsu chọn để tự mặc khải mình ra. Chính Ta đang nói với ngươi đây, Ta là Đấng ấy. Bấy giờ bà tin vào Chúa Giêsu và thuật lại điều đã xảy tới, đó là Tin Mừng rồi.

 

Chúa hiện diện gần gũi với đời sống cụ thể thường nhật của ta. Ta có biết nhận ra Người không? Có chấp nhận đối thoại với Người không? Có chấp nhận rằng không phải chỉ có những của cải vật chất mới là quan trọng chăng? Ta có cố gắng không để cho mình bị vật chất hóa chăng? Không phải chỉ có nước uống nuôi xác, còn có nước chảy vọt ra thành sự sống đời đời. Đời sống ta có được nuôi dưỡng bằng kinh nguyện và thờ lạy không?
 


 

Khát vọng vô biên của con người

 

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’ – R. Veritas)

 

Andre Frossard, một ký giả người Pháp đã cho xuất bản cuộc phỏng vấn Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II cách đây vài năm, là con của một người theo chủ nghĩa Marxit. Chính ông đã từng là một người cộng sản đầy xác tín…

 

Ngày nọ, ông phải đưa một người bạn đến một tu viện. Trong lúc chờ đợi người bạn, ông tò mò bước vào một nhà nguyện có đặt Mình Thánh Chúa. Ông không bao giờ nghĩ rằng Chúa đang chờ đợi ông. Trong phút chốc, ông bỗng nhận ra một ánh sáng thiêng liêng trong tâm hồn. Bừng dậy sau một cơn mê tăm tối, ông bước ra khỏi nhà nguyện chạy tức tốc đến người bạn và hô lớn: “Thiên Chúa hiện hữu. Đó là một chân lý”.

 

Ông đã ghi lại kinh nghiệm thiêng liêng ấy trong một quyển sách với tựa đề: “Thiên Chúa hiện hữu, tôi đã gặp Ngài”. Quyển sách đã được liệt kê vào danh sách những tác phẩm bán chạy nhất (best-seller)…

 

Anh chị em thân mến,

Dù cho chúng ta có chối bỏ Thiên Chúa, Ngài vẫn luôn luôn chờ đợi chúng ta. Tại một góc đường nào đó, trước một ánh nến lung linh nào đó, trong một biến cố đau thương nào đó, Ngài đang chờ đợi chúng ta. Phải, Thiên Chúa như một người tình chung thủy lúc nào cũng chờ đợi chúng ta… Chỉ có sự thất vọng, chán nản mới có thể hủy bỏ mọi hẹn hò của Thiên Chúa. Bao lâu chúng ta còn tìm kiếm, bao lâu chúng ta còn phấn đấu, bao lâu chúng ta còn hy vọng, thì bấy lâu Thiên Chúa vẫn chờ đợi chúng ta…

Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy Chúa Giêsu cũng đang chờ đợi người thiếu phụ Samari bên bờ giếng của Tổ phục Giacob giữa ngã ba đường, tại làng Sikar. Từ một lời xin được nước uống, Chúa Giêsu đã khéo léo bắt chuyện và dần dần đưa người thiếu phụ từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác: từ chỗ chỉ thấy người đối thoại với mình là một người lữ hành, một người Do Thái kỳ lạ, dám tiếp xúc với một người phụ nữ Samari vốn thù nghịch với mình, đến chỗ coi người lữ hành nầy như một tổ phụ – như Tổ phụ Giacod – còn hơn nữa, như một tiên tri và cuối cùng nhận ra Ngài là Đấng Cứu Thế đã được trông đợi từ lâu. Chị liền vội vàng chạy đi thông báo cho dân thành đến với Đấng Cứu Thế. Chính ngài sẽ ban cho chúng ta “Nước hằng sống”. Bao lâu chưa tìm ra nguồn nước đó, con người sẽ chết đói, chết khát.

 

Cuộc hẹn bất ngờ đã làm đảo ngược tình huống: Bây giờ người đói, người khát không phải là Chúa Giêsu nữa mà chính là người thiếu phụ Samari. Chính chị là người phải mở miệng xin Chúa cho nước uống, không phải thứ nước từ trong giếng kia, uống vào chỉ đỡ khát trong chốc lát; còn Ngài, Ngài sẽ ban cho thứ nước ban sự sống đời đời, như Ngài nói: “Ai uống nước Tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước Tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước chảy vọt mang lại sự sống đời đời”.

 

Thưa anh chị em,

Con người sinh ra trong giới hạn, nhưng lại mang một khát vọng vô hạn. Và để thỏa mãn cơn khát đó, kẻ thì đánh lừa mình bằng cách tạo ra những thần tượng để tôn thờ và họ sẽ thất vọng… Kẻ thì lấp đầy khao khát đó bằng cách lăn xả vào những khoái lạc vật chất. Họ cũng sẽ thấy chán chường, không bao giờ thấy thỏa mãn. Chúa Giêsu đã nói với người thiếu phụ Samari: “Ai uống nước giếng nầy, sẽ vẫn còn khát…”, thứ nước này không giải khát hoàn toàn, nó vừa xoa dịu cơn khát, vừa duy trì và kích thích cơn khát. Ai mà chẳng biết cái chu kỳ quỷ quái của dục vọng, luôn luôn tái phát, chẳng bao giờ no thỏa. Ai lại không cảm thấy nhu cầu được thỏa mãn cứ trào lên vô tận, thúc đẩy mình hưởng thụ cách nào đó: càng khát lại càng uống, càng uống lại càng khát…

 

Chỉ có Chúa Kitô, phát xuất từ Thiên Chúa vô biên có thể dạy chúng ta ý nghĩa khao khát đó. Ngài dạy chúng ta sống với vô biên, khát cái phải khát, và chỉ có Ngài mới có thể lấp đầy khát vọng vô biên của con người. Chính Đấng Vô Biên đã tạo ra trong lòng chúng ta cái khát vọng vô biên, không sao thỏa mãn, không sao lấp đầy đó. Chỉ khi nào gặp được Đấng Vô Biên trong Đức Kitô, lòng chúng ta mới được thỏa mãn mà thôi.

 

Thánh Augustinô, sau một khoảng đời đi tìm kiếm danh vọng, địa vị, tiền tài, tình yêu, hạnh phúc, cuối cùng đã chán ngán, ăn năn sám hối trở lại với Chúa và ngài đã thốt lên: “Lạy Chúa, Chúa dựng nên con cho Chúa, thế mà bấy lâu nay con chỉ mải mê tìm kiếm cái gì khác ở ngoài Chúa. Vì vậy lòng con luôn băn khoăn thao thức mãi cho đến khi được an nghỉ trong Chúa. Lạy Chúa, con đã biết Chúa quá muộn! Con đã yêu Chúa muộn quá rồi!”.

 

Người thiếu phụ Samari hôm nay khi gặp được Đức Giêsu – nguồn mạch nước hằng sống – đã phải thốt lên với mọi người: “Mau hãy đến xem một ông đã nói với tôi mọi việc tối đã làm. Phải chăng ông ấy là Đấng Kitô”. Sau khi dân thành Samari kéo đến gặp Chúa Giêsu và xin Ngài ở lại, họ đã hân hoan tuyên xưng rằng: “Không phải vì lời chị kể lại mà chúng tôi tin. Chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Ngài thật là Đấng Cứu Thế”. Và cũng như Andre Frossard, một đảng viên cộng sản đầy xác tín đã phải thốt lên: “Thiên Chúa hiện hữu, tôi đã gặp Ngài”. Không phải chỉ thốt lên bằng một lời nói mà bằng cả một tác phẩm ghi lại kinh nghiệm gặp gỡ thiêng liêng ấy, một tác phẩm thuộc loại sách bán chạy nhất.

 

Anh chị em thân mến,

Chúa Giêsu là niềm khát vọng thầm kín, sâu xa của mọi người và mỗi người chúng ta trong cái khát vọng cơm nước tầm thường hằng ngày của chúng ta, để rồi chúng ta cảm thấy không phải chỉ cần có thứ cơm nước đó mới sống được, không phải chỉ có những thực tại vật chất ấy là đáng kể trong đời sống mà còn có những khát vọng tình yêu và hạnh phúc, độc lập và tự do, công lý và hòa bình…, và lắng sâu trong tâm hồn còn có khát vọng sự sống vĩnh cửu; Nước Hằng Sống.

 

Chúng ta phải làm sao để cảm thấy Chúa cần thiết cho đời sống của chúng ta, gắn liền với cuộc sống chúng ta như ánh nắng, như khí thở, như cơm ăn, như nước uống hằng ngày: “Ai uống nước Tôi ban cho sẽ không bao giờ khát nữa… và sẽ được sống muôn đời”.

 


Xin mở mắt tâm hồn con

(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’ – R. Veritas)

 

Quí ông bà, cô bác và anh chị em thân mến!

 

Có lẽ chúng ta không còn cần câu chuyện nào khác để dẫn chứng cho chúng ta đối với đoạn Phúc Âm hôm nay. Cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và người đàn bà xứ Samaria được mô tả một cách thật là hay, với nhiều chi tiết gợi ý và có thể thu hút sức chú ý của chúng ta. Tác giả Phúc Âm không nhắc đến tên của người đàn bà này, mà chúng ta có thể giả thuyết là Chúa và các tông đồ, dĩ nhiên trong số các tông đồ có cả tác giả Phúc Âm tức thánh Gioan, biết tên người đàn bà này, vì Chúa đã lưu lại nơi cộng đồng trong vùng hai ngày sau đó để giảng dạy. Người đàn bà không được nhắc đến tên, có lẽ vì hai lý do sau đây:

 

- Trước hết là sự tế nhị không muốn nêu danh tánh của một người đàn bà đã có năm đời chồng và hiện đang sống với người không phải là chồng của mình.

 

- Lý do thứ hai quan trọng hơn, là vì tác giả Phúc Âm thánh Gioan muốn trình bày nơi đây không phải lịch sử cuộc đời của một người đàn bà tội lỗi, nhưng trình bày cho chúng ta có thể nói là con đường đức tin của mỗi người chúng ta.

 

Nói cách khác, chúng ta không cần biết danh tánh người đàn bà đó là ai. Vì có thể nói, người đàn bà đó là mỗi người chúng ta đây trước mặt Thiên Chúa. Con đường đức tin của chúng ta, chúng ta hãy quan sát xem người đàn bà này đã gặp Chúa Giêsu như thế nào. Hay nói cách khác, Chúa Giêsu đã gặp bà và hướng dẫn bà từ một thái độ đối nghịch sang thái độ kính trọng, cuối cùng tin nhận và làm chứng cho Chúa như thế nào.

 

Trước hết, dung mạo tinh thần của người đàn bà đó là ai? Mặc dù chúng ta không biết tên và không cần biết tên, đây là người xứ Samaria, con cháu của những người Do Thái mang dòng máu Adam. Chúng ta biết vào năm 700 trước Chúa Giêsu sinh ra thì những người Do Thái bị bắt đi lưu đày sang Babilon và vùng đất Samari này được người khác đến cư ngụ. Năm 500 trước Chúa Giêsu sinh ra thì những người Do Thái được trở về lập quốc và vùng đất Samari này là vùng đất mà những người Do Thái sống với những người ngoại quốc, họ lập gia đình với nhau, cưới hỏi nhau. Từ đó những người Samari này có thể nói là những người Do Thái mang dòng máu lai người ngoại quốc, không còn là Do Thái chính tông trong sạch như những người Do Thái ở vùng Giuđêa, quanh thành Giêrusalem và đền thờ Giêrusalem.

 

Đây là những người bị người Do Thái coi như là kẻ thù theo cả hai nghĩa, kẻ thù của dân tộc Do Thái đã kết thân lập gia đình với những người ngoại quốc, và cũng là kẻ thù coi thường Luật Chúa, Luật Môsê, không xứng đáng lãnh nhận hồng ân cứu rỗi của Thiên Chúa nữa. Hơn thế nữa, người đàn bà đã có năm đời chồng và đang sống với một người không phải là chồng của mình. Một người tội lỗi công khai, bị kẻ khác xét xử như là kẻ ngoan cố trong tội lỗi, vui lòng với tội lỗi của mình, mà theo quan điểm con người của chúng ta thì có lẽ đây là trường hợp hết thuốc chữa.

 

Người đàn bà Samari mà Chúa Giêsu gặp không còn xứng đáng với ơn cứu rỗi của Chúa, đó là nhìn theo quan điểm con người chúng ta, nhưng không hẳn như vậy, vì trong thâm tâm của bà vẫn còn có một thắc mắc, một khát khao vượt ra khỏi tình trạng hiện tại của mình. Chúng ta có thể ghi nhận bà còn một chút hiểu biết giáo lý, còn đang mong chờ Đấng Thiên Sai đến để ban ơn cứu rỗi. Do đó bà đã hỏi Chúa Giêsu: "Chúng tôi phải thờ Thiên Chúa ở đâu? Tại Giêrusalem hay trên núi này? Tôi biết rằng Đấng Thiên Sai sẽ đến để dạy cho chúng tôi mọi sự". Đó là khao khát từ trong thâm tâm của bà hướng về Đấng Cứu Rỗi, và hơn nữa nơi con người bà còn có một điều tốt là can đảm nói sự về cuộc đời mình ra trước mặt Chúa. Bà đã dám nhìn nhận tôi không có chồng, bà ý thức về tội lỗi của mình, và có chút khao khát hướng về sự giải thoát, về ơn cứu rỗi.

 

Chúa Giêsu đã hành động như thế nào đối với bà? Chúa đến với bà trước hết trong dung mạo của người Do Thái, tức là kẻ thù của người Samari. Chúa vượt qua hai định kiến xấu đối với bà, người Samari và người đàn bà. Người vùng Samari như đã nói là những người Do Thái mang dòng máu lai ngoại quốc, không còn trung thành, không còn là Do Thái chính cống trong sạch với Luật Môsê nữa.

 

Một vị thầy của người Do Thái không bao giờ nói chuyện với người đàn bà nơi công cộng, nhưng Chúa Giêsu vượt qua hai định kiến xấu này và khơi dậy thiện cảm của người đàn bà khi mở miệng xin nước uống: "Xin bà cho tôi nước uống". Chúa tạo dịp cho người đàn bà làm một việc thiện, làm một điều tốt cho một người mà mình không thích để từ đó nâng dậy người đàn bà sa ngã.

 

Hành động và lời nói của Chúa Giêsu đã phá tan thành kiến nơi người đàn bà: "Sao ông là người Do Thái mà lại xin nước uống với tôi là người Samari?" Hành động và những lời nói của Chúa làm cho người đàn bà có một thái độ kính trọng hơn, bà đã đổi cách xưng hô từ việc ngay từ đầu gọi Chúa là ông một cách xa lạ, thì giờ đây biến thành: "Thưa Ngài, xin hãy cho tôi nước uống". Một lời thưa nói lên thái độ kính trọng, bà đã sẵn sàng lắng nghe Chúa nói với bà.

 

Chúa dùng hình ảnh nước uống để mạc khải về mầu nhiệm ân sủng Thần Linh từ Thiên Chúa muốn ban cho con người. Chúa không có thái độ khinh thị, Chúa sử dụng ngôn ngữ người đàn bà dễ hiểu và cuối cùng dẫn bà đến thực tại sâu xa nhất trong tâm hồn của bà. Đó là Chúa cho bà biết là bà đang khao khát một cái gì cao siêu hơn, không phải nước uống vật chất, không phải tình thương nhục dục, nhưng khao khát ơn cứu rỗi, khao khát gặp được Đấng Thiên Sai, trong lúc đó Chúa Giêsu đã mạc khải rõ ràng hơn cho bà Đấng Thiên Sai đó chính là Thiên Chúa, là người đang nói với bà đây. Con đường đức tin của bà đã bắt đầu, bà đón nhận và trở thành người chứng đầu tiên cho Chúa, bà chạy về làng kêu mời những người khác đến gặp Chúa Giêsu. Tin và làm chứng cho Chúa luôn đi đôi với nhau.

 

Tác giả Phúc Âm thánh Gioan không kể thêm chi tiết khác nữa, vì đó có thể là những chi tiết để thỏa mãn tính tò mò của mỗi người chúng ta hôm nay khi đọc đoạn Phúc Âm này, nhưng ngài muốn nói đầy đủ trong đoạn Phúc Âm này những chi tiết khác thuộc phạm vi riêng tư giữa Chúa và người đàn bà, giữa Chúa và mỗi người chúng ta, giữa Chúa và mỗi người mà chúng ta không cần biết đến.

 

Những gì đã được kể ra trong đoạn Phúc Âm hôm nay là để giúp cho mỗi người chúng ta nhìn lại con đường đức tin của mình: tôi đã gặp được Chúa như thế nào? Tôi đã gặp Chúa hay chưa? Để mỗi người chúng ta biết trở về nhìn nhận giây phút ân sủng mà Chúa đến thăm mỗi người, Chúa thực hiện một dấu lạ, một điều gì đó kể cả Chúa dùng tội lỗi của chúng ta như Chúa dùng trường hợp tội lỗi của người đàn bà để mạc khải một thực tại cao siêu hơn, để kêu gọi người đàn bà trở về, bà đã có năm đời chồng, bà nói đúng sự thật về người mà bà đang sống, bà biết người đang sống với bà không phải là chồng của mình. Chúa có thể dùng những tật xấu, những tội lỗi của chúng ta để thức tỉnh chúng ta và mời gọi chúng ta trở về với Chúa.

 

Xin Chúa giúp mỗi người chúng ta được thức tỉnh để nhìn nhận tình trạng tội lỗi của mình, nhất là nhìn nhận nơi chính thâm tâm của mỗi người chúng ta có một khao khát hướng về Chúa, có một khao khát được ơn Chúa cứu rỗi. Xin Chúa đến và củng cố đức tin của chúng ta.

 


 

Trống vắng

 

Một du khách từ thánh địa trở về kể lại rằng: Ngày nọ lúc ông đang ngồi trên một bờ giếng, thì một phụ nữ Ả Rập, vai mang một cái thùng, tay cầm một cuộn dây quấn lại tròn như một quả cầu, với một chiếc gàu nhỏ bằng da. Đến nơi, chị cột dây vào gàu và thả xuống giếng, rồi kéo lên và đổ nước vào thùng. Khi đã đầy thùng, chị liền rời khỏi giếng và trở về nhà.

 

Lúc sau, một người đàn ông xuất hiện. Anh chẳng có gì để múc. Và thế là vì quá khát, anh bèn bò xuống đất, liếm những giọt nước, mà người phụ nữ đã đổ trào ra. Câu chuyện đơn giản trên sẽ giúp chúng ta hiểu điều mà người phụ nữ Samaria đề cập đến qua đoạn Tin Mừng hôm nay.

 

Chị ta nói với Chúa Giêsu:

 

-Thưa ông, ông không có gàu để múc, mà giếng thì lại sâu, thế thì ông kiếm đâu ra nước hằng sống.

Và Chúa Giêsu đã cắt nghĩa cho chị ta hiểu rằng Ngài không định nói đến thứ nước vật chất, làm dịu đi cơn khát thông thường, mà là thứ nước thiêng liêng, làm dịu đi cơn khát tâm linh. Ngài nói:

 

-Ai uống nước này vẫn còn khát, nhưng ai uống nước Ta ban sẽ chẳng khát bao giờ nữa.

 

Như thế Chúa muốn nói: Về mặt thể xác, tất cả chúng ta đều bị khát thế nào, thì về mặt tâm linh, tất cả chúng ta cũng bị khát như vậy.

 

Tuy nhiên, sự khát tâm linh này là gì? Đâu là sự trống rỗng bên trong mà chúng ta đã từng cảm nghiệm… Các tác giả Cựu Ước đã nói về điều này như là một cơn “khát Chúa”. Chẳng hạn thánh vịnh 42 thì nói:

 

-Như nai khát mong tìm suối mát, hồn con cũng mong đợi Ngài như thế.

 

Tiên tri Isaia thuật lại lời Chúa:

 

-Tất cả mọi kẻ khát hãy đến cùng ta.

 

Còn tiên tri Giêrêmia thì sánh ví Chúa như giòng suối trong. Cơn khát mà tất cả chúng ta đều cảm thấy là cơn khát Chúa. Đây là một cơn khát nội tâm mà mọi người đều có thể cảm nghiệm được như lời thánh Augustinô:

 

-Tâm hồn chúng con được tạo nên cho Chúa và nó sẽ còn khắc khoải cho đến khi nào được nghỉ yên trong Chúa.

 

Thế nhưng, nhiều người thời nay đang cố gắng tìm cách thỏa mãn cơn khát tâm linh này bằng những thứ khác không phải là Chúa. Chẳng hạn như tiền bạc, danh vọng, lạc thú. Họ hành động như cho đứa bé đang khóc một cục kẹo để nó nín. Tuy nhiên kinh nghiệm cho hay dùng vật chất để làm thỏa mãn cơn khát thiêng liêng chẳng khác nào dùng muối để giải tỏa cơn khát thể xác. Càng uống lại càng khát thêm. Nơi trái tim mỗi người đều ẩn dấu một con khát mà không giòng nước nào có thể thỏa mãn nổi, một nỗi khắc khoải mà không sự thành công nào có thể giập tắt được, một sự trống rỗng mà không của cải vật chất nào có thể lấp đầy được. Điều đó dẫn chúng ta tới kết luận của đoạn Tin Mừng hôm nay:

 

Chỉ có Chúa mới thỏa mãn được cơn khát trong tâm hồn chúng ta. Và chỉ một mình Ngài mới lấp đầy khoảng trống trong cuộc đời chúng ta, bởi vì như lời Ngài đã xác quyết: Ai uống nước Ta ban thì sẽ chẳng khát bao giờ.

 


 

Nguồn nước

 

Có một người Á Rập nghèo nọ phải băng qua giữa sa mạc trong cơn đói khát và mệt lả. Tình cờ, người đó bắt gặp một dòng suối. Với tất cả tấm lòng biết ơn ông ta uống từng ngụm nước và cảm thấy ngọt ngào khôn tả. Ông múc nước đổ vào bầu da cho đầy và tiếp tục cuộc hành trình.

 

Sau nhiều ngày vất vả, ông đã đến thủ đô Baghdad. Tìm đủ cách để được tiếp kiến quan đầu tỉnh, ông dâng kính cho quan tặng vật là chính bầu nước. Quan đầu tỉnh đón nhận món quà một cách vui vẻ. Cho nước vào trong ly, ông uống cạn và cám ơn người Á Rập, đồng thời tưởng thưởng ông một cách quảng đại.

 

Những người hầu cận cứ nghĩ thầm rằng đây là một thứ nước kỳ diệu nên ai cũng mong được nếm thử. Nhưng quan đầu tỉnh nhất mực từ chối… Chờ cho người Á Rập đi khuất, quan mới giải thích về cử chỉ của mình. Nước để lâu trong bầu da đã trở nên bẩn và hôi thối. Quan nghĩ rằng nếu tất cả mọi người đều uống nước đó và đều tỏ thái độ khó chịu trước mặt người Á Rập, ông ta hẳn sẽ bị tổn thương.

 

Người Á Rập cứ tưởng mình trao tặng cho quan đầu tỉnh món quà diệu kỳ. Hóa ra là chính quan đầu tỉnh mới là người tặng cho anh món quà vô giá, với một phong cách trao ban hết sức tế nhị và thấm đậm tình người.

 

Người phụ nữ Samari cứ tưởng mình làm ơn cho Đức Giêsu khi cho người uống nước từ giếng Giacóp. Hóa ra Người mới chính là vị ân nhân sẽ ban cho bà một thứ nước diệu kỳ, uống vào “sẽ không bao giờ khát nữa”.

 

Nước ấy chính là Nước hằng sống, nước đó chính là Lời Đức Giêsu, lời bày tỏ con người kín nhiệm của Người, là Đấng Mêsia sẽ đến. Để cuối cùng, Người đã tự tỏ mình ra không phải cho người Do Thái đồng hương, cũng không phải cho các môn đệ thân yêu, mà là cho chính chị, người phụ nữ ngoại giáo Samari: “Đấng ấy chính là tôi, Người đang nói với chị đây” (Jn 4,26). Niềm vui vỡ òa trong tim, chị vội vã đi loan báo cho dân làng, để họ cũng được uống thứ nước tuyệt diệu của Đức Giêsu, Nước hằng sống, nước uống vào sẽ không còn khát nữa.

 

- “Đấng ấy” chính là Mêsia, vị cứu tinh của nhân loại. Chỉ những ai tin vào Người, mới đáng lãnh nhận ơn cứu độ.

 

- “Đấng ấy” chính là Nước hằng sống. Chỉ những ai thật lòng khao khát mới được ban cho thỏa thuê dư đầy.

 

- “Đấng ấy” chính là Lời hằng sống. Chỉ những ai đón nhận Lời và thực thi trong cuộc sống, mới được sống đời đời.

 

Cuối cùng, Đức Giêsu đã không ăn cũng chẳng uống. Vì Người dùng một thứ lương thực mà chính các Tông đồ cũng không hề biết. Thánh Gioan đã không để chúng ta phải chờ đợi lâu. Vâng, lương thực của Người chính là “đồng lúa đã chín vàng đang chờ gặt hái” (c.35), là “nhiều người Samari trong thành đó đã tin vào Người” (c.39). Cơn đói của Người là mong cho mọi người nhận biết và yêu mến Cha, cơn khát của Người là ước cho muôn người được no thỏa “nước uống vào sẽ không còn khát nữa”.

 

Chúng ta sẽ làm thỏa cơn đói của Đức Giêsu, khi chúng ta làm theo người phụ nữ Samari mau mắn đi loan báo cho dân làng biết Người chính là Đấng Mêsia.

 

Chúng ta sẽ làm thỏa cơn khát của Đức Giêsu, khi chúng ta cùng với dân làng Samari tin Người là “Đấng cứu độ trần gian” (c. 42).


 


 

Thờ lạy trong tinh thần và chân lý

 

André Sève

 

Với vẻ tò mò, người phụ nữ Samaria tiến tới phía người đàn ông đang ngồi trên thành giếng. Bởi vì Chúa Giêsu đang sống, bởi vì mỗi bài suy niệm này là một cuộc gặp gỡ tình yêu với Chúa Giêsu hằng sống, tại sao không nghĩ rằng Ngài đang chờ tôi? Chính Ngài nói với tôi: “Hãy cho Ta uống nước”

 

Nhưng Ngài khẳng định ngay: “Nếu ngươi biết rõ ơn Thiên Chúa ban: chính ngươi biết rõ ơn Thiên Chúa ban; chính ngươi sẽ xin và ngươi sẽ được uống nước hằng sống”.

 

Hai nỗi khát khao làm hoang mang. Chúa Giêsu nói: “Hãy cho Ta”, rồi: “Hãy xin Ta”. Và xa hơn một chút: “Chúa Cha đang cần những người tôn thờ Ngài thực sự”. Chúng ta đang ở trên đỉnh cao của sự mạc khải. Chúng ta biết rằng Thiên Chúa có thể làm cho chúng ta hết khát, nhưng không có bài Phúc Âm này thì ai dám nghĩ rằng Thiên Chúa khao khát chúng ta?

 

Cách duy nhất để có thể xứng đáng với sự khao khát này chính là khao khát Ngài. Sự ước muốn và tình yêu có qua có lại: tình yêu vì tình yêu. Chính là phải xin nước của Ngài là nước sẽ làm cho chúng ta ước ao Chúa: “Hãy xin Ta nước hằng sống và nơi ngươi sẽ phát sinh nguồn mạch tình yêu. Ngươi có thể là một trong những người tôn thờ mà Cha tìm kiếm”.

 

Người tôn thờ sao? Những hình ảnh phiền nhiễu nổi lên, những người sấp mình trước một ngẫu tượng. Cho nên Thiên Chúa của chúng ta là gì nếu Ngài muốn người ta sấp mình trước mặt Ngài?

Ngài là Thiên Chúa. Không có gì có thể thay đổi được cứ liệu này trong quan hệ của chúng ta: Ngài là Thiên Chúa. Ngài không tìm kiếm những kẻ thờ lạy, Ngài tìm kiếm những kẻ thờ lạy thực sự. Sự chính xác có một tầm quan trọng lớn lao. Chỉ những kẻ tôn thờ thực sự mới đáp lại tình yêu của Ngài, không ngừng xem Ngài là Thiên Chúa. Nếu không, mối quan hệ bị sai lệch, tình yêu của chúng ta không đạt tới Thiên Chuá, chúng ta hoàn toàn ở trong sự ảo tưởng.

 

Tôi vừa đặt tình yêu vào chỗ tôn thờ, bởi vì chúng ta biết rằng Thiên Chúa yêu thương chúng ta và chờ đợi chúng ta yêu thương Ngài. Nhưng để không lầm lẫn về mối tình kỳ lạ có thể nối kết con người với Thiên Chúa này, phải đào sâu ý tưởng thờ lạy. Đây hoàn toàn không phải thờ lay một ngẫu tượng nhưng là biết yêu mến Chúa mà vẫn luôn luôn cảm nhận sự uy nghiêm của Ngài. Tôi ngần ngại trước khi viết “sự uy nghiêm”, và sự ngần ngại này chứng tỏ cho tôi thấy rằng không dễ gì tìm được ngôn từ đúng đắn cho tình yêu tôn thờ này. Do đó ngày nay có một cách nói của Phúc Âm trở nên nổi tiếng bởi vì nó xác định đầy đủ sự tôn thờ thực sự: “Phải thờ lạy Thiên Chúa trong tinh thần và chân lý”.

 

Khi thánh Gioan nối kết hai từ tinh thần với chân lý bằng từ và, từ quan trọng nhất thường là từ thứ hai (chẳng hạn “Ông ta thấy và ông ta tin”). Do đó, ở đây phải chú trọng đến chân lý. Vẫn đối với Gioan, chân lý làm ta nghĩ ngay đến Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã khẳng định: “Ta là chân lý”. Trong khi mạc khải chân lý về Chúa Cha, về chính mình và về quan hệ giữa Ngài với Cha, Chúa Giêsu dạy chúng ta thờ lạy “trong chân lý”. Điều đó có nghĩa là: yêu Cha như Chúa Giêsu yêu thương Ngài.

 

Nhưng chỉ có Chúa Thánh Thần mới có thể ban cho chúng ta những tâm tình như Chúa Giêsu. Thờ lạy “trong tinh thần” có nghĩa là được Thánh Thần linh ứng khi chúng ta muốn yêu thương Cha theo cách của Chúa Giêsu.

 

Bạn chắc chắn cảm thấy tôn thờ thực sự tức là tôn thờ Ba Ngôi. Cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu ở giếng Giacob mang lại cho chúng ta ba màu sắc của sự tôn thờ: Sự tôn thờ này hướng đến Chúa Cha, trong khi, dưới ảnh hưởng của Chúa Thánh Thần, sự tôn thờ này được nuôi dưỡng bằng mọi chân lý đến từ Chúa Giêsu.

 


 

Nước

 

Ai cũng cần nước. Sau không khí, nước là yếu tố quan trọng của đời sống. Có nước mới có rau cỏ, mới có sự sống. Ai cũng biết thế, nhưng ít ai lại biết quí nước. Sở dĩ chúng ta không quí nước là vì nước quá nhiều. Sử dụng ở đâu và lúc nào cũng có.

 

Chỉ khi nào hạn hán mọi sông và giếng đều cạn, mọi suối đều khô, lúc ấy chúng ta mới biết đến giá trị của một giọt nước. Chúng ta thường quí những gì ít ỏi, hiếm hoi và có khuynh hướng phung phí và coi thường cái có nhiều.

 

Đối với Ả Rập hay Tây tạng, đối với khách bộ hành trong sa mạc thì mỗi giọt nước là một giọt máu trong thân thể. Trái lại, với chúng ta ở đồng ruộng hay ven sông, có phung phí nước cũng không hết. Có nhiều khi còn sợ nước gây úng thủy ngập lụt. Chúng ta là những người giàu có nước uống, nước giếng, nước sông, nước hồ, nước ao, nước mưa, nước trái cây và mỗi ngày chúng ta dùng từ 200 đến 500 lít nước để ăn uống, tắm giặt, tha hồ thoải mái.

 

Nhưng có bao giờ chúng ta uống nước nhớ nguồn. Có bao giờ chúng ta đặt câu hỏi tại sao tôi lại được dư giật nước như thế. Tại sao nước chúng ta dùng lại là nước ngọt, trong khi ở biển nước lại mặn đắng.

 

Kinh Thánh trả lời nước là tác phẩm do Thiên Chúa tạo dựng. Ngay từ buổi khai thiên lập địa, Thánh Thần Chúa đã bay lượn trên nước. Thiên Chúa đã cho mưa thuận gió hòa, đã dùng nước để tiêu diệt cả một thế hệ vô luân ngoại trừ Noe là người công chính. Nước ở biển đỏ đã cứu thoát dân Do Thái và vùi dập đoàn quân của Pharaon. Qua những sự kiện ấy, chúng ta thấy được giá trị của nước.

 

Trước hết, nước tạo nên sự tươi mát. Bất cứ nơi đâu, dù là sa mạc mà có nước chảy vào, tức thì có ngay mầu xanh của cây cối. Đứng trước một dòng nước, ai lại không muốn tâm hồn mình được tươi mới. Những ngày hè nóng bức, chúng ta uống nước đá, tắm nước sông hay gặp nước mưa thì quả thực là mát mẻ. Từ vạn vật cho đến lòng người,tất cả đều được đổi mới. Chúng ta cũng hãy nghĩ đến dòng nước Rửa tội đã gây nên trong chúng ta những đổi mới cho đời sống thiêng liêng.

 

Tiếp đến nước tinh luyện và tẩy sạch. Còn gì sạch bằng nước, người Do Thái xưa kia đã hiểu như vậy, cho nên họ đặt ra những luật lệ trong việc sử dụng nước: phải rửa tay trước khi ăn uống, phải tắm gội trước khi dâng của lễ, phải rửa chân khi đi đường xa mà trở về nhà.

 

Nước còn được dùng để trừ bệnh phong cùi, tẩy sạch mọi ô uế tình dục. Chúa Giêsu đã rửa chân cho các môn đệ trong ý nghĩa thanh tẩy ấy và đã dùng dòng nước rửa tội để xóa bỏ mọi dấu vết của tội lỗi.

 

Nếu như nước thường do bàn tay Chúa dựng nên còn có ích cho việc dinh dưỡng, thì Chúa càng có quyền để làm nên một thứ nước trường sinh như chính Ngài đã quả quyết với ông Nicôđêmô và người thiếu phụ Samaria:

 

Nước hằng sống của Chúa là nước cứu độ, ai uống vào sẽ không bao giờ khát và không còn mơ ước một thứ gì trên trần gian này nữa. Nước hằng sống này xuất phát từ trái tim ngập tràn yêu thương của Ngài, đã hoán cải được biết bao nhiêu người, không lẽ lại chẳng níu kéo được chúng ta ra khỏi vũng lầy tội lỗi.

 

Nước sông Babylon đã chứng kiến nỗi lòng thống hối của một dân tộc lưu vong. Nước sông Giocđan đã góp phần chữa lành Naaman, đã được diễm phúc đón nhận Đấng Cứu Thế. Dòng nước hằng sống vọt ra từ cạnh sườn Chúa đã tha tội cho tên trộm lành, cho dân Do Thái cũng như cho toàn thể nhân loại.

 

Điều quan trọng là chúng ta có đến để kín múc hay không. Cho dù chúng ta có đang sống bên bờ con kênh nhỏ thì đừng bao giờ quên dòng nước hằng sống, đó là một dòng nước ít người biết đến nhưng lại không bao giờ cạn và nhiễm độc.

 

Điều cần thiết đó là: Hãy hiệp thông với dòng sông ấy để lãnh nhận những ân sủng của Chúa, nếu chúng ta không muốn là những kẻ bị chết khát.
 


 

Nước hằng sống

 

“Cho thì có phúc hơn là nhận”. Qua việc xin người khác cho đi sự gì đó, đôi khi chúng ta làm họ giác ngộ và trưởng thành. Họ có dịp để bước vào thế giới biết chia sẻ tình thương. Tagore đã viết một dụ ngôn rất có ý nghĩa.

 

Ngày nọ có một người ăn xin đi khắp làng, nhưng anh chẳng xin được gì vì nhà nào cũng đóng cửa. Anh bèn tìm cách đi ra khỏi ngôi làng vào giữa lúc ban trưa nắng đổ. Mồ hôi nhễ nhãi, mệt mỏi vì đói, chán nản vì bị từ chối, anh ngồi xuống bên vệ đường. Bên cạnh anh là một cái túi chứa một nắm hạt bắp. Anh dự định chiều tối về nhà sẽ đem ra xay thành bột, làm một cái bánh ăn cứu đói. Thình lình mắt anh sáng lên khi nhìn thấy chiếc xe của vua từ đằng xa đang tiến lại gần. “Nhà vua nổi tiếng là một người tử tế”, anh tự nghĩ. “Ngài sẽ không lỡ đi qua mà chẳng cho mình cái gì”. Rồi anh chuẩn bị đứng lên, chờ đợi hồi hộp. Anh thật khoái chí khi thấy chiếc xe của vua từ từ chậm lại. Quả vậy, nó đã ngừng lại ngay chỗ anh đứng với đôi bàn tay giang rộng chờ đợi xin xỏ.

 

Cửa xe mở ra và nhà vua xuất hiện. Người ăn xin cúi gập người xuống dự tính nói: “May phước thay, thưa hoàng đế. Xin ngài bố thí cho tôi tớ hèn mọn này một ít tiền”. Nhưng nhà vua đã chìa tay ra trước và nói: “Xin bạn dành cho vua một hạt bắp nhỏ được không?” Người ăn xin hoàn toàn ngỡ ngàng trước biến cố lạ lùng này. Lấy lại bình tĩnh, anh nói: “ Thưa hoàng đế, xin vâng lệnh”. Rồi mở chiếc bị ra, liếc nhanh vào trong, anh nhặt lấy một hạt bắp nhỏ nhất, và đưa cho vua với lời xin lỗi rằng đây là tất cả lương thực anh có. Nhà vua cám ơn anh, bước lên xe đi khỏi, để lại cho người ăn xin một cảm giác trống rỗng và thất vọng ê chề.

Suốt ngày ngồi ăn xin bên bên vệ đường mà chẳng được gì, khi hoàng hôn xuống anh trở về nhà buồn bã, mệt mỏi và đói bụng. Ngay khi về đến nhà anh bắt đầu làm bếp, đổ hết số hạt bắp trong bị ra. Khi kiểm tra lại những hạt bắp, anh giật mình khám phá thấy rằng hạt bắp nhỏ nhất đã được thay thế bằng một hạt vàng ròng cùng cỡ. Trong nuối tiếc, anh ngồi than thở rằng nếu biết được món quà nhà vua muốn cho, anh đã cho vua tất cả số bắp đang có trong bị. Nếu làm như thế, bây giờ anh đã trở thành một người giàu có và không bao giờ phải đi ăn xin nữa!

 

Trong bài Phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu cũng áp dụng phương pháp giáo dục này khi Ngài hỏi người đàn bà Samaria: “Xin bà cho tôi nước uống”. Ngài thường khởi sự làm phép lạ bằng việc xin một điều gì trước. Ngài đã xin những người đầy tớ đổ đầy những chum nước trước khi biến thành rượu ở tiệc cưới Cana. Ngài đã xin năm chiếc bánh và hai con cá từ em bé trai để hóa bánh ra nhiều.

 

Từ việc xin nước uống, Chúa Giêsu đã biểu lộ cho người đàn bà Samaria biết Ngài là Đấng Cứu Thế khao khát nhân loại. “Ngài là người đến tìm chúng ta trước. Ngài xin ta cho Ngài nước uống, vì Thiên Chúa khao khát chúng ta”. Thánh Gioan đã dùng câu chuyện người đàn bà Samaria bên giếng nước để làm nổi bật lên chủ đề của Tin Mừng thứ Tư được tóm tắt trong lời mở đầu như sau: “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận. Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa”. Lòng thương xót của Thiên Chúa vượt ra khỏi mọi giới hạn về quốc gia, văn hóa, sắc tộc, và phái tính. Sự cứu rỗi được ban cho tất cả nhân loại.

 


 

Đổi thay

 

Qua Tin mừng hôm nay, chúng ta nhận thấy nơi Chúa Giêsu, con người gặp gỡ được tình yêu và ơn cứu độ của Thiên Chúa với những diễn biến nội tâm:

 

1. Một sự thay đổi:

 

Cũng giống như các cuộc đàm thoại với ông Nicôđêmô, Marta và Maria, người đàn bà ngoại tình, tất cả đều kết thúc bằng một sự thay đổi. Qua lời Chúa mà tất cả các nhân vật đã nhận ra Chúa Giêsu là ai. Người đàn bà Samaria đã có sự thay đổi trong ngôn ngữ khi nói chuyện với Chúa. Lúc đầu bà gọi Chúa Giêsu là ông (You), ngôi thứ hai, kế đó là Thưa Ngài (Sir), rồi từ việc nhận thức Ngài là một tiên tri đến Đấng Thiên Sai. Dịch từ tiếng Hy lạp “Kyrios”, “Đấng Cứu Thế”, là Đấng mà theo thánh Phaolô diễn tả trong thơ gửi tín hữu Philipphê: “Mọi gối phải bái quì, cả trên trời dưới đất và nơi âm phủ”.

 

2. Một sự hiểu biết:

 

Cuộc đối thoại đã thay đổi từ sự ngộ nhận tới thái độ thông cảm hiểu biết. Chúa Giêsu nói về Ngài như là nước hằng sống. Lúc đầu, người đàn bà hiểu nước hằng sống như là dòng nước luân lưu trôi chảy, khác với nước ao tù ứ đọng. Đối với người Do Thái, nước là một biểu tượng có ý nghĩa. Họ thường đề cập đến sự khao khát của đời sống tinh thần đối với nguồn nước hằng sống và sự khao khát của linh hồn tìm kiếm Thiên Chúa. Trong Cựu Ước, suối nước biểu tượng cho chính Thiên Chúa hay cho sự khôn ngoan qua việc tuân giữ lề luật. Đó là món quà vĩ đại nhất của Thiên Chúa. Theo Gioan thì đó là sự xuất hiện của Chúa Giêsu, Đấng được Xức dầu của Thiên Chúa. Nước biểu tượng cho thần khí, như Chúa Giêsu đã nói: “Ai tin vào Ta, thì từ lòng Người, sẽ tuôn chảy những dòng nước hằng sống”. “Không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước và Thần Khí”.

 

3. Một lòng khao khát:

 

Trong cuộc đối thoại, Chúa Giêsu đã vượt qua những hàng rào đố kỵ, ngộ nhận để đi thẳng vào lòng khao khát của con người. Theo William Barclay, thái độ của người đàn bà lúc đầu không những là hiểu lầm mà còn có vẻ mỉa mai, châm biếm Chúa Giêsu: “Thưa Ngài, xin cho tôi nước đó để tôi chẳng còn khát và khỏi phải đến đây xách nước nữa”. Nhưng trong thái độ mỉa mai này đã biểu lộ một sự thật trong trái tim của con người. Đó là khát vọng tìm kiếm một điều gì mà chỉ có Chúa Giêsu mới làm thỏa mãn được. Thánh Augustinô đã nói lên sự thật này: “Trái tim của chúng ta không bao giờ yên nghỉ cho đến khi được nghỉ yên trong Người”.

 

4. Một chứng nhân:

 

Cuộc đối thoại bị ngưng vì các môn đệ trở lại, và người đàn bà đã để chiếc vò múc nước ở giếng, trở về làng. Bà trở về làng mà không mang vò nước theo chứng tỏ rằng bà rất vội vã, muốn chia sẻ Tin Mừng gặp gỡ Đấng Cứu Thế cho những người khác. Giống như Philipphê khi đã gặp được Chúa Giêsu rồi liền đi tìm Nathanaen để loan báo Tin Mừng. Bà Maria Mađalêna đã vội vã đi tìm các môn đệ và loan báo rằng đã gặp thấy Chúa.

 

Sứ mạng của người Kitô hữu cũng trải qua hai giai đoạn: trước hết gặp gỡ Đức Kitô một cách cá nhân, như là một chứng nhân; sau đó trở nên nhà truyền giáo, loan báo Tin Mừng. Sự khám phá ra Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế đã làm cho người đàn bà vui mừng đến nỗi không còn cảm thấy xấu hổ về tội lỗi của mình nữa. Bà chạy đi loan báo công khai cho mọi người biết về một con người đã biết tất cả cuộc đời của bà. Bà chỉ nói về điều xảy ra cho bà, và mời mọi người hãy đến và xem.

 

Vai trò của người đàn bà Samaria là đưa mọi người đến với Chúa Giêsu như Công đồng Vatican II đã viết: “Việc tông đồ mà mỗi người phải thực hiện bắt nguồn từ mạch sống phong phú đích thật Kitô giáo. Đó là căn bản và điều kiện của mọi hoạt động tông đồ giáo dân.

 

Dẫn đưa mọi người đến với Đức Kitô, nguồn nước hằng sống cũng là vai trò của Giáo Hội, của các người Kitô hữu như thánh Gioan đã nói: “Giờ đây, không phải vì những lời chị kể lại mà chúng tôi tin, nhưng chính chúng tôi đã được nghe lời Người và chúng tôi biết Người thật là Đấng Cứu Thế”.

 


 

Gặp gỡ

 

Bài Tin Mừng thuật lại một trong những cuộc gặp gỡ của Chúa Giêsu. Đây là cuộc gặp gỡ một phụ nữ ở Samaria và cuộc gặp gỡ này đã làm chuyển biến cuộc đời của người phụ nữ ấy.

 

Người phụ nữ này đi kín nước thì tình cờ gặp Chúa Giêsu đang ngồi nghỉ chân bên bờ giếng, chứ chị ta không hay biết gì và cũng không có ý định gặp Chúa. Chúa đã gợi chuyện với chị bằng việc xin nước uống. Sau một cuộc hành trình xa dưới nắng nóng, mệt mỏi, Chúa Giêsu khát nước, gặp giếng nước và người kín nước, Ngài xin nước uống là một điều tự nhiên bình thường. Nhưng ở đây không phải Chúa khát nên xin nước uống mà chỉ là dịp để Ngài đề cập đến một vấn đề quan trọng hơn. Có thể nói Chúa giả vờ xin nước để gợi truyện, Ngài muốn nói cho chị ta biết: chính chị là người đang khát, và Chúa cũng muốn nói cho chị ta biết: Ngài là ai, là người sẽ làm cho chị hết khát: “Ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa”.

 

Nhưng lại ở mức độ cụ thể của đời thường, người phụ nữ Samaria không hiểu gì hết, nên Chúa đi thêm một bước nữa, Ngài nói với chị về đời tư của chị, khi đó chị nhận ra ngay Ngài là một ngôn sứ. Chúng ta thấy Chúa không kết án, cũng không trách chị ta đã có đến năm đời chồng rưỡi. Đó không phải là vấn đề. Điều Chúa muốn là chị ta nhận ra Ngài là ai, và Chúa đã thành công. Từ không biết đến nghi ngờ, từ nghi ngờ đến nhận biết. Chị nghi ngờ người đang nói với chị không phải là bất cứ ai, và chị đã nhận ra một khuôn mặt mới: không phải là một ngôn sứ mà là Đấng Mêsia mọi người đang mong đợi.

 

Thế là giếng đó, vò đó, người phụ nữ không còn quan tâm nữa, chị chạy ngay đi thông báo nước hằng sống vừa khám phá. Chính cái quá khứ không ra gì của chị đã làm cho chị trở thành có khả năng nói về Chúa: “Đến mà xem: có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là Đấng Kitô sao?” Mọi người tin lời chị, họ đến gặp Chúa Giêsu và họ cũng tin Chúa. Như vậy, sau khi gặp Chúa Giêsu, người phụ nữ đã tin và làm chứng cho Chúa giữa những người Samaria trong thành, và những người này, sau khi gặp Chúa, đã xin Chúa ở lại với họ, và hân hoan tuyên xưng rằng: “Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian”.

 

Kinh nghiệm gặp gỡ Chúa Giêsu của người phụ nữ Samaria là cái mẫu gặp gỡ Chúa của chúng ta, và yêu cầu chúng ta hãy cố thực hiện một cuộc gặp gỡ như thế trong Mùa Chay. Sống kinh nghiệm gặp gỡ Chúa không phải chỉ là một may mắn tình cờ mà là điều ai cũng có thể tìm gặp được. Muốn gặp gỡ Chúa là điều rất dễ, bởi vì chính Chúa yêu thương chúng ta, ngày ngày đi tìm và đến gõ cửa tâm hồn mỗi người chúng ta. Chúng ta đang muốn gặp gỡ Chúa ư? Hãy nhớ lời Chúa nói: “Này Ta đang đứng ngoài cửa và gõ, ai nghe tiếng Ta và mở cửa thì Ta sẽ vào nhà kẻ ấy”. Như vậy có nghĩa là cuộc gặp gỡ hoàn toàn tùy thuộc nơi chúng ta, tùy thuộc vào thái độ sẵn sàng của chúng ta. Có thể Chúa Giêsu đã tìm đến gõ vào cánh cửa của tấm lòng chúng ta nhiều lần rồi, nhưng chúng ta say ngủ hay bận bịu trăm công ngàn việc hoặc trong tấm lòng chúng ta có quá nhiều tiếng ồn ào và quá nhiều khách khứa nên chúng ta đã không nghe thấy tiếng Ngài và không mở cửa cho Ngài. Nếu thế thì cần phải có những quyết định cụ thể và thay đổi ngay thế nào để khi Chúa đến gõ cửa, chúng ta sẵn sàng mở ngay. Có thể Chúa đang gõ cửa tấm lòng chúng ta ngay trong lúc này, chúng ta đừng bỏ lỡ cơ hội. Xin Chúa cho tất cả chúng ta đều sẵn sàng mở cửa để Chúa đến gặp gỡ và ban nhiều hồng ân cho chúng ta trong Mùa Chay.

 

Người phụ nữ Samaria gặp Chúa Giêsu, cuộc gặp gỡ này đã làm chuyển biến cuộc đời chị. Nếu chúng ta muốn thay đổi hay đổi mới cuộc đời mình, chúng ta hãy đến với Chúa Giêsu, hãy gặp gỡ Ngài, bởi vì chỉ có Chúa mới giải đáp được những băn khoăn, những ưu tư của chúng ta, chỉ có Ngài mới làm cho cuộc đời chúng ta đáng sống, sống vui, sống mạnh, sống hạnh phúc và có ý nghĩa.


 


 

Trong Thánh Thần và Chân Lý

 

Trong một câu chuyện ngụ ngôn "Những Sinh Vật của Thói Quen", kể rằng có hai vợ chồng bác nông dân kia cảm thấy cần phải sửa chữa cái chuồng gia súc cũ. Nóc chuồng thì dột, một vài tấm ván ghép tường bị mục, còn sàn chuồng bằng đất lại lồi lõm nên bị đọng nước mỗi khi trời mưa. Thế rồi chuồng mới được xây lên và chuồng cũ bị phá hủy trước khi mùa đông đến.

 

Sáng hôm sau, trước khi đi phố mua thêm đồ dùng, bác cho gia súc ra đồng cỏ và để cửa chuồng mở phòng hờ nhỡ khi thời tiết đổi xấu. Mà thật, thời tiết trở nên xấu thậm tệ. Nhiệt độ xuống thấp dần, mưa bắt đầu rơi và nước mưa chuyển thành băng. Bác nông dân cảm thấy rất vui khi nghĩ mấy con vật giờ đang được ấm áp trong căn chuồng mới. Khi bác về tới nhà liền đi thẳng ra chuồng thú vật, nhưng căn chuồng trống rỗng chẳng có con vật nào cả. Bác vội chạy ra ngoài tìm kiếm và thấy một cảnh thật lạ lùng. Đó là mấy con vật trông thật tội nghiệp, chúng nép vào với nhau và trên lưng chúng thì phủ đầy băng tuyết; đồng thời chúng lại đứng trên cái nền chuồng cũ, cảnh ấy thật là Những Sinh Vật của Thói Quen.

 

Chúng ta thờ Chúa không phải chỉ làm những việc theo thói quen như đi nhà thờ hay đọc kinh nhưng phải thờ Chúa trong cả đời sống chúng ta.

 

Vào thời Chúa Giêsu thì người Samaritanô là những người xưa ly khai và tách mình khỏi dân tộc Do thái. Không như người Do thái thờ Thiên Chúa tại đền thờ trên núi Sion ở Giêrusalem, người Samaritanô đã thờ Chúa Trời tại đền thờ trên núi Garizim. Bởi đó phụ nữ kia đã nói với Chúa Giêsu: "Tôi thấy Ngài là một tiên tri, vậy xin Ngài hãy nói với tôi tại sao cha ông chúng tôi thờ Chúa Trời trên núi này trong khi những người Do thái các ông lại nói phải thờ tại Giêrusalem?" Chúa Giêsu trả lời: "Hãy tin Ta, vì khi giờ đến thì người ta không còn thờ phượng Chúa Cha trên núi này hay tại Giêrusalem... Nhưng khi giờ đến, mà thật sự nó đã đến rồi, thì những người thật sự thờ Thiên Chúa sẽ tin thờ Chúa Cha trong tinh thần và chân lý; đó chính là điều Chúa Cha muốn" (Jn 4:20, 21, 23).

 

"Thờ Chúa Cha trong tinh thần và sự thật", qua những lời đó Chúa Giêsu đã hướng quan niệm về việc thờ phượng Thiên Chúa từ nơi chốn sang tính cách. Tức là việc tôn thờ Thiên Chúa hệ tại không phải là "ở đâu" nhưng là "thế nào". Người ta sẽ không còn cho rằng Thiên Chúa chỉ ẩn mình trong những bức tường của đền thờ thế gian, hay Ngài chỉ quanh quẩn đâu đấy như trên đỉnh núi chẳng hạn. Thật sự, người ta sẽ thờ Chúa trong tinh thần và chân lý, và Nhà của Chúa được tìm thấy trong tâm hồn con người. Người ta không dựa vào thói quen nhưng mặc lấy tinh thần của Chúa.

 

Thánh Phaolô đã nhắc nhớ chúng ta phải tẩy sạch một số thói quen. Ngài nói, "Anh em hãy vất bỏ tất cả những gì thuộc về thế gian: gian dâm ô uế, đam mê sai trái, dục vọng xấu xa, tham lam ăn uống, giận dữ, nóng nảy, thù hận, chửi thề và ngôn từ lăng loàn... anh em hãy dứt khoát với mọi thói quen ấy" (Col 3:5-7). Kể cũng lạ, vì có rất nhiều trong chúng ta đi nhà thờ, đọc Thánh Kinh, bàn về đạo lý nhưng vẫn cứ để cho những tính xấu ấy làm chủ đời mình.

 

Hơn nữa, Thánh Phaolô nói rằng chúng ta cần phải thay đổi những tập quán xấu bằng những tập quán tốt. Ngài nói, "Hãy mặc lấy, hỡi những người được Chúa tuyển chọn, lòng quan tâm trắc ẩn, tốt lành, khiêm nhường, quảng đại, nhẫn nại, chia sẻ nỗi buồn, tha thứ mọi lỗi lầm anh em xúc phạm tới ngươi, và trên hết hãy mặc lấy tình yêu" (Col 3:12-14).

 

Xin cho chúng con thật sự thờ Chúa trong tinh thần và chân lý, trong cả cuộc sống chúng con.

 


 

Chú giải của Noel Quession

 

Đức Giêsu đến một thành xứ Samari, tên là Xy kha gần thửa đất ông Giacóp đã cho ông là ông Giuse. ở đấy có giếng của ông Giacóp. Người đi đường mỏi mệt, ngồi ngay xuống bờ giếng. Lúc đó vào khoảng mười hai giờ, trưa. Có một người phụ nữ Samari đến lấy nước.

 

Những trang viết lớn của Gioan thì không ai quên được. Ta có thể đọc chúng ở nhiều mức độ không đối lập nhau: 1. Một báu vật văn chương và thi ca. 2. Một ý nghĩa nội sinh từ diễn tiến kịch tính của các màn diễn. 3. Một sự nêu bật giá trị tâm lý tinh tế của Đức Giêsu. 4. Một sự phong phú những kỷ niệm Kinh Thánh được sử dụng lại. 5. Một cách sử dụng các ý nghĩa biểu tượng sâu xa của loài người. 6. Và, bên trong tất cả những thứ đó, một nền thần học nhiệm tích và Kitô học cực kỳ cụ thể.

 

Vâng hãy nếm trước hết ý nghĩa hiện thực của cảnh tượng: Đức Giêsu mệt nhọc, vật vã, kiệt sức vì một chuyến đi dài dưới ánh nắng ban trưa. Người lại ăn chay, ngay trước bữa ăn không thể làm được gì nữa, Người ngồi xuống đất, lưng tựa vào thành bờ giếng. Người khát nhưng không có thùng múc nước. Một phụ nữ tới, đội một vò nước, theo kiểu phương Đông. Khi tôi kiệt lực, và tôi không thể làm được gì nữa, tôi có thể cầu ông Giêsu này, Người biết chuyện đó là gì.

 

Đức Giêsu nói với chị ấy: "Chị cho tôi xin chút nước uống". Lúc đó các môn đệ của Người đã vào thành mua thức ăn. Người phụ nữ Samari liền nói: "Ông là người Do Thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Samari, cho ông uống nước sao?”. Quả thế người Do Thái không được giao thiệp với người Samari, Đức Giêsu trả lời: "Nếu chị nhận ân huệ của Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị xin cho tôi chút nước uống thì hẳn chị đã xin, và người ấy đã ban cho chị nước hằng sống”.

 

Đức Giêsu, con người tự do, ở đây vi phạm ba điều cấm kị: về chủng tộc, về tôn giáo, về giới tính. Ở Phương Đông, người ta cấm nói với với một người đàn bà ở chỗ công khai.

 

Những tín đồ Do Thái tốt đều khinh miệt những người Samari; cho là những kẻ rối đạo và sùng bái thần tượng. Từ tám thế kỷ, người Samari và Do Thái đã hết sức thù hằn nhau một cách dữ tợn. Nhưng Đức Giêsu tự do Người không tin vào những cấm cản dứt khoát, những nhãn hiệu nẩy lửa, những khẩu hiệu quá đơn giản của những cách phân loại chính trị hay tôn giáo giữa người tốt và kẻ xấu.

 

Người phụ nữ ấy nói: “ Thưa ông, ông không có gầu mà giếng lại sâu. Vậy ông lấy đâu ra nước hằng sống? Chẳng lẽ ông lớn hơn tổ phụ chúng tôi là Giacóp, người đã cho chúng tôi giếng này? Chính Người đã uống nước giếng này, cả con cháu và đàn gia súc của Người cũng vậy”. Đức Giêsu trả lời: "Ai uống nước này sẽ lại khát. Còn ai uống nước tôi cho sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời”. Người phụ nữ nói với Đức Giêsu: "Thưa ông, xin cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi đến đây lấy nước".

 

Chúng ta bắt đầu đoán về tất cả nghệ thuật tâm lý của Đức Giêsu (và của Gioan). Đây không phải chỉ là một ngụm nước mà một người nước ngoài đầy bụi bặm xin Đức Giêsu mang đến, ở chỗ sâu thẳm nhất của sinh thể mình, một thứ khát khao khác. Người đốt cháy lên nỗi khát khao làm cho những nguồn nước chảy vọt lên ở trong lòng những người đàn ông và đàn bà... Nước! Nước là một thực tại của sự sống. Không có một sự sống nào mà không có nước! cái yếu tố xem ra tầm thường và quá đơn giản này, lại là quí giá nhất. Ngay trong những vùng trên địa cầu mà ở đó có nước dồi dào, thì ngày nay, người ta lại phát hiện được giá trị thiết yếu của nó: người ta bảo vệ, người ta để nó sang bên cạnh để nó không thiếu, người ta thanh lọc nó. Thế thì chẳng ngạc nhiên gì khi nước đã có một giá trị biểu tượng phổ biến trong tất cả mọi nền văn minh và tôn giáo trong Kinh Thánh. "Nước hằng sống" là chính hình ảnh Thiên Chúa ban sự sống (Gr 2,13; Is 12,3; 55,1; Ed 47,1; Dc 14,8). Biểu tượng nước đầy dẫy trong sách Tin Mừng Gioan; nước hóa rượu của Cana (Ga 2,7); nước mà trong đó người ốm muốn lặn xuống ở chỗ giếng Bết-da-tha (Ga 5,7); nước mở mắt cho người mù ở giếng Si-lô-ê (Ga 9,7), con sông nước hằng sống chảy từ ngực Đức Kitô được loan báo trên bậc thềm của Đền Thờ (Ga 7,38), nước của sự sống cho những ai muốn sinh lại bởi nước và Thánh Linh, được loan báo cho Ni-cô-đê-mô (Ga 8,5), sau cùng, nước chạy vọt ra từ cạnh sườn của Đấng chịu khổ hình thập giá (Ga 13,39). Bạn có một nguồn nước nơi bạn, bạn biết đó, từ ngày bạn chịu phép Thánh Tẩy.

 

Đức Giêsu bảo chị ấy: "Chị hãy gọi chồng chị, rồi trở lại đây". Người phụ nữ đáp: "Tôi không có chồng". Đức Giêsu bảo: Chị nói tôi không có chồng là phải, vì chị đã năm đời chồng rồi, và người đang sống với chị không phải là chồng chị. Chị đã nói đúng.

 

Biểu tượng miền Samari “bán mình làm đĩ” cho các thần tượng... mà cũng là người phụ nữ có thật. Đó là thân bèo giạt hoa trôi, cái đồ thừa thãi đáng thương, bị chìm xuống vực thẳm làm một thứ đồ chơi cho cả một nửa lố đàn ông. Thế thì ông là ai, anh chàng nước ngoài mệt phờ này, cái anh chàng Do Thái bị tẩy chay này, mà lại đoán ra vết thương lòng của tôi? Thế thì ông là ai, cái anh chàng dò xét cõi lòng phụ nữ với một sự tế nhị đến độ không làm người ta phải ngượng ngùng? ông là ai, cái người mà đã đoán được cả lòng tôi khát khao hạnh phúc mà những thứ tình qua đường của tôi không làm nguôi được ông là ai, cái anh bạn vô danh có vẻ muốn chìa tay cho tôi biết rằng, dù kinh nghiệm tôi trải qua có đau đớn thật, nhưng cuộc đời tôi có lẽ không phải là một thất bại?

 

Người phụ nữ nói với Người: 'Thưa ông, tôi thấy ông thật là một ngôn sứ... Cha ông chúng tôi đã thờ phượng Thiên Chúa trên núi này còn các anh lại bảo: Giêrusalem mới chính là nơi thờ phượng Thiên Chúa". Đức Giêsu nói: “Này chị, hãy tin tôi. Đã đến giờ các người thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay ở Giêrusalem. Các người thờ phượng Đấng các người không biết, còn chúng tôi thờ Đấng chúng tôi biết, vì ơn cứu độ phát xuất từ dân Do Thái. Nhưng giờ đã đến và chính lúc này đây giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong Thần Khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế Thiên Chúa là Thần Khí và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí vô sự thật”. Người phụ nữ thưa: tôi biết Đấng Mê-si-a, gọi là Đức Kitô, sẽ đến. Khi Người đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự Đức Giêsu nói: "Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây".

 

Ôi đàn bà, cuộc đời của chị không phải đã hết, đã hỏng. Ôi, loài người, nỗi khát khao của người còn xâu xa hơn người tưởng. Ôi tội nhân, sự thất bại của người có lẽ sắp trở thành một nguồn suối.

 

- Thờ phượng! Đấy là mục tiêu của Người! Ngươi không nghĩ đủ đâu. Nhưng tôi, tôi nhắc lại mười lần tiếng này: Thờ phượng. Ngươi được tạo thành cho Thiên Chúa. Ôi, đàn bà, tấm lòng ngươi quá lớn lao, nên không chỉ bằng lòng với những hạnh phúc rời rạc và tạm bợ! Tất cả những gì tận cùng đều ngắn ngủi.

 

- Thờ phượng! Dù muốn hay không, con người đã được lập trình cho chuyện này. Chỉ một mình Thiên Chúa mới thanh thỏa được nhu cầu về vô hạn nơi chúng ta. Nỗi khát không những tái phát.

 

- Thờ phượng! Thái độ huyền nhiệm của người đứng trước mặt Thiên Chúa, cõi lòng được ngoạm vào, hít vào, xoa dịu, no thỏa bởi Đấng trên cao!

 

Người phụ nữ Samari vẫn còn có nhiều vấn đề tôn giáo có tranh cãi: phải thờ phượng Thiên Chúa ở đâu?... trên núi Garizim, miền Samari, hay trên núi Si-on ở Giêrusalem? Câu trả lời của Đức Giêsu là một sự vi phạm Truyền Thống: dám nói rằng Đền Thờ và các nghi thức phụng vụ không còn quan trọng gì cả! Thật là phạm thượng! Sự thờ tự Thiên Chúa đích thực là điều đã được thúc đẩy trong cuộc đời chúng ta nhờ chính "Thần Khí". Đền Thờ Thiên Chúa đích thực là đền thờ mà Chân lý của Chính Đức Kitô đến khánh thành: đó là thân xác Người; và Đức Giêsu nhận được sự đón tiếp tốt nhất không phải chính tại miền Giu-đê, nhưng tại ngay giữa miền Samari: “Các ông thờ phượng điều mà các ông không biết!". Chính người "Do Thái" biết sự thật. Nhưng chính "anh rối đạo" lại được phụ quyền. Lạy Chúa, xin cho chúng con sự yêu thích thờ phượng trong Thần khí và trong sự thật.

 

Vừa lúc đó, các môn đệ trở về. Các ông ngạc nhiên vì Người nói chuyện với một phụ nữ. Tuy thế không ai dám hỏi Người "Thầy cần gì vậy?” hoặc "Thấy nói gì với chị ấy thế?". Người phụ nữ ấy để vò nước lại, vào thành và nói với người ta: "Đến mà xem, có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm, ông ấy không phải là Đấng Kitô sao?". Họ ra khỏi thành và đến gặp Người.

 

Tấm lòng của người phụ nữ đã được cứu thoát. Trong cuộc đời bị khô héo, một cuộc sống thấp lè tè dưới đất, hời hợt (tiêu thụ đủ loại), một nguồn nước đã vọt ra nơi chị ta. Chị không còn gì làm về cái giếng và cái vò nước này. Chị chạy đi thông báo về nước hằng sống mà chị vừa khám phá ra. Làm sao mà không kêu lên tin mừng cho cả làng nghe! Và chính cái quá khứ nặng nề tội lỗi của chị đã khiến cho chị thấy quá hợp để nói về Thiên Chúa: "Hãy đến xem có người đã yêu tôi với lòng xót thương". Câu chuyện này không phải là câu chuyện của bạn sao?.

 

Trong khi đó các môn đệ thưa với Người rằng: "Ráp-bi, xin mời Thầy dùng bữa". Người nói với các ông: 'Thầy phải dùng một thứ lương thực mà anh em không biết". Các môn đệ mới hỏi nhau: "Đã có ai mang thức ăn đến cho Thầy rồi chăng?". Đức Giêsu nói với các ông: lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người. Nào anh em chẳng nói: Còn bốn tháng nữa mới đến mùa gặt?" Nhưng này. Thầy bảo anh em: "Ngước mắt lên mà xem, đồng luá đã chín vàng đang chờ ngày gặt hái. Ai gặt thì lãnh tiền công và thu hoa lợi đễ được sống muôn đời, và như thế cả người gieo lẫn người gặt đều hớn hở vui mừng. Thật vậy câu tục ngữ “kẻ này gieo người kia gặt" quả là đúng. Thầy sai anh em đi gặt những gì chính anh em đã không phải vất vả làm ra. Người khác đã làm lụng vất vả; còn anh em được vào hưởng công lao vất vả của họ.

 

Có nhiều người Samari trong thành đó đã tin vào Đức Giêsu, vì lời người phụ nữ làm chứng: Ông ấy nói với tôi mọi việc tôi đã làm. Vậy khi đến gặp Người dân Samari xin Người ở lại với họ và Người đã ở lại đó hai ngày. Số người tin vì lời Đức Giêsu nói còn đông hơn nữa. Họ bảo người phụ nữ: "Không còn phải lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật chính chúng tai đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng Cứu Độ trần gian".

 

Vâng, từng nấc một, Gioan đã đưa chúng ta xuốngchiếc giếng sâu, chính là huyền nhiệm về bản vị Đức Giêsu: một người nước ngoài đáng thương mệt nhoài và khát đến cháy cổ… một người Do Thái "biết Đấng mình thờ phượng" nhưng còn lớn hớn cả Giacóp, người sáng lập nước Israel, một ngôn sứ đọc được trong lòng người ta và đoán được những âu lo bị che khuất Đấng Mêsia được trông đợi đã làm chảy vọt lên nước hằng sống của cuộc sống muôn đời; và dạy cho loài người biết sự khát khao đích thực: Thờ phượng Thiên Chúa trong Thần khí và trong sự thật, tóm lại Đấng Cứu Độ trần gian.

 

Bao lâu còn chưa khám phá ra cái suối này, Đức Giêsu mà tất cả thức ăn của Người là thực hiện ý muốn của Chúa Cha, thì thế gian chết vì đói và khát cũng một thứ đồ ăn và thức uống đó luôn ở trong thực đơn nơi bàn tiệc của Giáo Hội. Phục sinh đến gần: phải chăng bạn sẽ ngã quỵ vì bệnh thiếu máu thiêng liêng ở gần ngay suối nước và bàn ăn? Và này bạn khát khao cái gì?

 


Chú giải của Fiches Dominicales

TIẾN TRÌNH NHẬN RA ĐỨC KITÔ

 

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:

 

1. Cuộc gặp gỡ bên bờ giếng Samaria:

 

Câu chuyện về cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu và người phụ nữ Samari, một trong những trang đẹp đẽ nhất của Phúc âm thánh Gioan, thuộc trong số những bài đọc quan trọng của vị thánh sử thường được Hội Thánh, ngay từ những thế kỷ đầu, dùng trong nghi thức khai tâm các dự tòng.

 

Sự việc xảy ra tại Samari. Miền đất này ngày xưa đã từng là đất thánh của các tổ phụ nhưng kể từ cuộc phân ly của người Samari, đã biếrl nên vùng đất bị thù ghét, tránh lai vãng.

 

Đức Giêsu bỏ miền Giuđê mà trở lại miền Galilê.Người có hai lối dể đi: một "nên đi", khó khăn vất vả hơn vì nắng nóng; một "không nên đi", không tốt cho những người Do Thái phải thường xuyên giữ mình sạch sẽ theo luật tế tự, thì lại qua ngã Samari.

 

Đức Giêsu cố tình chọn lối đi thứ hai này: "Người phải băng qua Samaria. Theo X. Dufour, có lẽ để chứng tỏ Người đến "để hoà giải các dân tộc, nối kết những anh em đã phân ly" (xem "Bài đọc Phúc âm theo thánh Gioan”, tập I, trang 342).

 

Sự việc diễn ra bên bờ giếng Giacob. Trong tất cả các nền văn minh Sêmít, giữa một thiên nhiên khắc nghiệt do hạn hán và sa mạc nóng cháy, giếng là chỗ duy nhất cung cấp nước, đã trở thành nơi có tính chất biểu tượng: nơi của sự sống, nơi để gặp gỡ, đối với những ai thông thạo Kinh Thánh, thì giếng nước còn là khung cảnh cho nhiều cuộc Giao ước, và là cái gợi nhớ lại ơn Thiên Chúa đã ban cho Dân Người trong thời xuất hành qua sa mạc.

 

2. Tiến trình nhận ra Đức Kitô.

 

Qua bài tường thuật Phúc âm, thánh sử Gioan muốn đưa chúng ta vào hành trình nhặn biết Đức Kitô.

 

- Những xê dịch đi lại trong không gian là hình ảnh biểu trưng cho những chuyến trở về nội tâm.

 

- Những thay đổi trong danh xưng Đức Giêsu đánh dấu từng bước của sự nhận biết: lúc đầu chỉ là "người Do Thái", rồi được tuyên bố là "lớn hơn tổ phụ Giacob là người đã cho chúng tôi giếng này, sau đó được gọi là "vị Tiên tri" trước khi xưng mình là "Đấng Messia" và được những người Samaria nhận là "Đấng cứu độ trần gian".

 

- Những ngộ nhận giữa đôi bên đối thoại chỉ cho chúng ta thấy những chặng đường phải vượt qua: Từ nước giếng đến nước Hằng Sống.

 

- Từ nơi chân thờ phụng đến việc tôn thờ Thiên Chúa trong tình thần và chân lý.

 

- Từ của ăn nuôi thân xác đến lương thực là thi hành ý Cha.

 

- Từ chuyện mùa màng đến sứ mạng trên cánh đồng truyền giáo. Từ nước giếng đến Nước Hằng sống:

 

"Có một người phụ nữ Samaria đến lấy nước”.Chị cho tôi xin chút nước uống, Đức Giêsu xin với người phụ nữ ấy, như ngày xưa dân Israel cũng đã xin cho có nước uống trong sa mạc (Bài đọc I). Người phụ nữ bỡ ngỡ trước lời đề nghi khó hiểu của người đàn ông Do Thái qua đường này, bởi trải qua nhiều thế ky đã có quá nhiều hiểu lầm và thù ghét giữa người Do Thái và người Samari. Chị không ngại chấp nhận cuộc trao đổi: "Ông là người Do Thái mà lại xin tôi, một phụ nữ Samari, cho ông nước uống sao?”. Vô tình chị đang từng bước đi vào một cuộc mặc khải nhiệm mầu chưa từng có.

 

Đức Giêsu "xin người phụ nữ nước uống".Vẫn theo X. Dufour, "Người ta có cảm tưởng là điều mà Người thực sự đang khát chính là cái khát, là nỗi ước ao của người phụ nữ làm sao có được thứ Nước Hằng Sống mà chỉ một mình Người có thể ban cho" (Sđd trang 354). Và quả thực, sau đó Đức Giêsu đã trả lời: "Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban và ai là người nói với chị: cho tôi chút nước uống, thì hẳn chị đã xin, và người ấy ban cho chị Nước Hằng Sống? Là kẻ "không có thùng để múc nước", giờ đây Người lại xưng mình sẽ ban Nước Hằng Sống, thứ nước sẽ làm thoả mọi cơn khát, thứ nước "sẽ trở thành nơi người uống ‘một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời’.

 

Câu chuyện chuyển dần theo nhận định của Alain Marchadour - từ cái giếng nước vật chất sang người đàn ông, một người Do Thái đã mệt lả và đói khát. Con người ấy, ngay trong tình thế thiếu thốn của mình, lại tự giới thiệu như một Đấng có quyền ban phát. Mà ân ban ở đây lại không có liên can gì tới thứ nước trong giếng cả, vòi từ nơi con người ấy, nó trở thành một nguồn suối mới ngàn trùng vượt xa cái giếng nước ban đầu Đức Giêsu đã đưa vào trong cuộc đối thoại một chiều kích mầu nhiệm từ chuyện một cái giếng nước vật chất mà Người ghé vào để xin nước uống, người đã huớng đến chính bản thân Người, là ân ban của Thiên Chúa, Đấng có quyền năng ban cho loài người Nước Hằng Sống" ("Phúc âm thánh Gioan”, Centurion, 1992, trang 76-77).

 

Từ nơi chốn thờ phượng đến việc tôn thờ Thiên Chúa trong tinh thần và chân lý:

 

Đức Giêsu lúc này đặt người phụ nữ trở về đối diện trước chuyện đời tư của mình: một cuộc sống thiếu chung thuỷ chẳng khác gì biểu tượng về sự bất trung tôn giáo nơi những người dân Samari. Chúa nói với người phụ nừ: "Chị hãy gọi chồng chị rồi trở lại đây”. "Tôi không có chồng, chị ta đáp. Chúa không nhượng bộ: "Chị nói tôi không có chồng là phải, vì chị đã năm đời chồng rồi (con số có thể khiến liên tưởng tới năm vị thần mà người Samari thờ), và hiện người đang sống với chị không phải là chồng chị. Chị đã nói đúng. "Thưa ông tôi thấy ông thật là một ngôn sứ, người phụ nữ nói tiếp, thêm một bước khám phá về chân tính của người khách lạ. Sau đó chị lái câu chuyện sang một vấn đề đã từng là nguyên cớ gây chia rẽ giữa người Do Thái và người Samari: nơi phải thờ phượng Thiên Chúa. "Trên núi này (núi Garizim)?” hay "ở Giêrusalem?”. Đức Giêsu báo cho chị ta hay rằng từ nay, với Người, một thời cũ đã qua, một thời mới bắt đầu: không còn chỗ cho thứ thờ phượng gắn liền với một ngọn núi; đã hết thời cho những cái đã là đền thờ này hay đền thờ kia (D. Mollat). Kể từ bây giờ sự hiện diện của Thiên Chúa không còn lệ thuộc vào một nơi chốn hay một đền đài nào nữa, nhưng vào một con người: Đức Giêsu Kitô. Người loan báo: "Những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật". Họ sẽ thờ phượng Chúa Cha trong Người, Đức Giêsu, Đấng là đền thờ mới (Ga 2,19-22), và nhờ Chúa Thánh Thần, Đấng được ban cho họ để trở nên con cái Thiên Chúa trong Người Con.

 

Và khi người phụ nữ đề cập tới việc “Đấng Messia mà người ta gọi là Kitô sẽ đến, Đức Giêsu trả lời: "Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây”.

 

Để vò nước lại, bởi nó chẳng còn dùng vào việc gì nữa, người phụ nữ chạy đi chia sẻ với bà con của mình niềm vui của cuộc gặp gỡ: người phụ nữ từng thèm khát được uống, được tồn tại, nay đã tìm ra được con người đã làm vọt lên trong chị một nguồn sống mới: "Ông ấy không phải là Đấng Kitô sao?”

 

3. Dẫn tới việc tuyên xưng đức tin:

 

Đang lúc đó thì các môn đệ trở về, mang theo đồ ăn thức uống. Người phụ nữ đã đi khỏi, các ông mời Chúa: “Rabbi, xin mời Thầy dùng bữa". Lại một ngộ nhận nữa liền xảy ra về chuyện "lương thực". Điều Đức Glêsu hằng tìm kiếm, cái là lương thực là sự sống của người chính là “thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và họàn tất công trình của Người”.

 

Rồi từ đề tài lương thực và sứ mạng dẫn tới đề tài “mùa gặt”. Thêm một ngộ nhận mới: các môn đệ chỉ nhìn thấy cánh đồng còn phải chờ bốn tháng nữa mới tới mùa gặt, còn Đức Giêsu lại mời gọi các ông "hãy ngước mắt lên mà xem" thấy những người Samari đang lại gần kia, họ chính là những hoa trái đầu tiên của mùa gặt truyền giáo. Bài tường thuật đạt tới đỉnh cao với lời tuyên xưng đức tin của những người Samari: chính chúng tôi đã nghe và biết rằng người thật là Đấng cứu độ trần gian. Lời tuyên xưng không trực tiếp nói với Đức Giêsu, nhưng với người phụ nữ. X. Dufour nhận xét: Ngay những kẻ đã được nghe Tin Mừng người phụ nữ loan báo, nay lại loan báo cho chị ta biết Đức Giêsu kia thực sự là ai: đúng là một trao đổi lạ lùng!, và kết luận: Qua phong cách và lời nói của người đàn ông Do Thái tên Giêsu đã đến ở giữa họ này, những người Samari đã được mở ra tới một chân trời mới vượt xa ranh giới mảnh đất của họ. Họ đã nhận ra con người này không chỉ là Đấng Messia cho một dân tộc mà họ mong đợi, nhưng là Đấng Cứu độ trần gian. (Sđđ, trang 39S và 395).

Đức Giêsu đã sẵn lòng ở lại với họ hai ngày, điều này làm sáng tỏ rằng đối với Người, không còn đâu là "miền đất được ưu tiên", không còn đâu là "miến đất bị ghét bỏ" nữa, nhưng tất cả mọi người không phân biệt đều được mời gọi đến với ơn cứu độ.

 

BÀI ĐỌC THÊM:

 

1. “Theo kiểu của họ, các anh chị tân tòng nói với chúng ta về tính chất muôn đời mới mẻ của Đức tin”.

 

"Người phụ nữ Samari". Đối với nhiều người đó là tên một cửa tiệm lớn ở Paris mà người ta đôi lúc còn nhắc đến thời còn bán đồ cũ. Nếu từ này còn có thể khiến ai đó chú ý đến chương IV của Phúc âm thánh Gioan này, thì chúng ta tin chắc rằng phải có một cái gì đó đặc biệt có sức thu hút, “nói là thu hút", nhưng trong câu chuyện Phúc âm không hề có vấn đề thu hút gì cả. Đúng hơn đây là một sự tiếp cận. Một sự khám phá và là một lời mời gọi không thể chối từ. Người phụ nữ Samari ở đây đúng là mẫu mực, là điển hình của người tân tòng đang dấn thân tìm gặp Đức Giêsu.

 

Chị ta lại chịu hai mặt bất lợi: là phụ nữ và là thành phần của một sắc dân bị người Do Thái miệt thị (bằng chứng về sự xuất hiện và có mặt của những cộng đoàn Kitô hữu tại Samari ngay vào thời Tin Mừng IV đang được biên soạn). Nhưng đó không thành vấn đề, Đức Giêsu vẫn tìm cách lôi kéo người phụ nữ này, nhưng một sức hấp dẫn vô hình. Cách tiếp cận thật lạ lùng: người khách lạ đã mỏi mệt dừng chân bên bờ giếng xin người phụ nữ chút nước uống. Đấng có quyền năng ban phát mọi sự, nay lại làm kẻ ngửa tay xin. Thiên Chúa luôn rộng ban ơn của Người cho tất cả những ai biết sẵn sàng cho đi chút của cải mình có. Người tân tòng sẽ tìm thấy không phải là một vị Thiên Chúa thích huỷ diệt để rồi lại ban phước, nhưng một Thiên Chúa nghèo, dường như phải cần đến loài người. Thế rồi câu chuyện bỗng đổi chiều, giờ đây cái nhìn của Đức Giêsu soi thấu vào ngõ ngách đời tư của người phụ nữ. Cái nhìn của loài người chỉ dừng lại ở bề ngoài, nhưng Thiên Chúa nhìn sâu vào cõi lòng. Người tân tòng phải chăng là kẻ mà Đức Giêsu đã trở nên thiết thân hơn chính bản thân họ?

 

Đến đây, người phụ nữ ngỡ ngàng nhận ra vị ngôn sứ Chị biết rằng giòng Nước Hằng Sống kia có thể rửa sạch mọi bất trung tội tình của chị. Kẻ sắp lãnh nhận phép Thánh Tẩy cũng thế, họ khát khao giòng nước rồi đây sẽ cho phép họ thầm thì kêu tên Thiên Chúa là Cha. Chưa hết, người phụ nữ còn bỏ lại tất cả, cả cái vò nước, cả những người tình, cả cuộc đời chị, để loan báo cho mọi người về cuộc gặp gỡ có tính chất quyết định cho chị. Chúng ta có khả năng để lắng nghe tiếng của những anh chị em tân tòng nói với chúng ta, theo cách của họ, sau khi đã giã từ cuộc đời dĩ vãng, về cái mới mẻ muôn thuở của Đức Tin?".

 

2. “Người phụ nữ bỏ quên vò nước bên bờ giếng”

 

"Bên bờ giếng, có một khánh bộ hành mỏi mệt dừng chân, chân lý đã vọt lên từ những lời ông ta nói. Cũng bên bờ giếng đó, người phụ nữ nọ đã để lại cái vò nước của mình, bởi từ nay nó những giúp gì cho chị đón nhận hồng ân Thiên chúa ban. Cái vò nước bỏ quên đó sẽ mãi mãi nói với chúng ta về một người phụ nữ mà số phận từng bị giam hãm trong đủ thứ công việc hằng ngày, trong những quan hệ không tới đâu với một loạt đời chồng, nay bỗng tìm thấy ý nghĩa cho đời mình qua cuộc gặp gỡ với Đức Giêsu, qua những trao đổi với Người. Cũng thế đối với những người Samari kia, những kẻ đã biết đón nhận người khách đường xa không hẹn mà đến này. Như thế, chính qua những chuyện của đời thường như ăn, uống, cuộc sống chung, cố gắng quay về với Thiên Chúa... mà con người nghe tiếng nói của Thánh Thần. Nhưng ở đây và lúc này, lại đến như một ân ban qua những bất trắc khôn lường của lời nói, qua thái độ chân thành của các bên đối thoại qua những khoảnh khắc thinh lặng để cho chân lý nói.

 


 

Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt

 

"Người phải băng qua Samari". Lộ trình ngắn nhất và dễ nhận từ Giuđê đến Galilê chạy ngang qua miền Samari. Edei, "Người phải", diễn tả một sự bắt buộc hay một sự tiện lợi về địa dư? 'Động từ dei, trong Tin Mừng Gioan (3, 7.14.30; 4, 20. 24; 9, 4; 10, 16; 12, 34...) cũng như trong các Tin Mừng Nhất Lãm (Mc 8, 31; 9,11) thường có nghĩa một sự bắt buộc phát xuất từ ý định cứu rỗi của Thiên Chúa. Có thể bảo ‘edei’ vừa xác định thêm chi tiết địa dư, vừa đặc biệt ám chỉ rằng Thiên Chúa muốn có câu chuyện này xảy ra ở Samari để mặc khải tính cách phổ quát của ơn cứu độ do Con Ngài mang đến.

 

"Lúc ấy chừng giờ thứ sáu".Những lối xác định thời gian loại đó ta còn gặp thấy trong 1, 39; 4, 52 và 19, 14. Trong 19, 14, cũng một thành ngữ như ở đây tái hiện trong bối cảnh vụ xử án Chúa Giêsu: có thể Gioan đã muốn dùng cùng một cách nói như vậy để ngụ ý là tính cách phổ quát của ơn cứu rỗi, được tỏ lộ trong câu chuyện hôm nay, tùy thuộc vào cái chết cứu chuộc của Chúa Kitô.

 

"Cho tôi uống với":Như trong mọi trình thuật của Gioan, chính Chúa Giêsu là người khởi xướng. Lời xin của Người có vẻ tự nhiên, vì lúc đó là buổi trưa, sau khi đi đường xa mệt mỏi. Nhưng đối với độc giả của Gioan, thì một lời xin như thế có vẻ lạ thường, vì người xin uống nước là chính người phải ban cho nước sống dư tràn.

"Trong Thần khí và sự thật".Một lối chú giải rất được phổ biến cho đây là lời ám chỉ việc phụng tự thiêng liêng, nội tâm, loại bỏ mọi hy tế và mọi nơi thờ phượng. Việc phụng tự hoàn toàn nội tâm này được khơi nguồn do sự hiểu biết đích thực về Thiên Chúa và do lòng sùng kính thành thật đối với chân lý. Song một lối giải thích như vậy vẫn còn thiếu sót, vì không lưu ý tới tính cách mới mẻ của việc phụng tự do Chúa Kitô thiết lập. Thật vậy, các ngôn sứ đã đòi hỏi việc phụng tự nội tâm nhiều lần rồi (Am 5, 20-26; Is 1, 11-20; 29, 13; Tv 50, 7-23; 51, 18tt). Vào thời Chúa Giêsu, người Do thái cũng như dân ngoại đều biết rằng phụng tự nội tâm trồi vượt phụng tự bên ngoài. Việc phụng tự mới được Chúa Kitô trình bày ở đây không thể chỉ là lặp lại lý tưởng các ngôn sứ rao giảng; nó phải được đặt vào trong bối cảnh chung của khởi điểm mới trong Chúa Kitô. Việc phụng tự Chúa Cha đích thực phải đáp ứng với địa vị mới của người tín hữu là được trở thành con Thiên Chúa: "Những kẻ thờ phượng đích thật" là những kẻ "sinh bởi Thiên Chúa" (1,13) bằng nước và Thần khí (3,5) và được hiến thánh nhờ sự thật (17, 17.19). Thành ra việc phụng tự mới là việc phụng tự khơi nguồn bởi nguyên lý sự sống của các Kitô hữu. Đây là phụng tự trong sự thật", vì được thành hình do mặc khải vẹn toàn của Chúa Giêsu.

 

"Thiên Chúa là Thần khí".Xác quyết này là một trong ba xác quyết quan trọng của Gioan về Thiên Chúa ("Thiên Chúa là ánh sáng" 1Ga 1,5; "Thiên Chúa là Tình yêu" 1Ga 4, 8-16). Nó có vẻ như là một định nghĩa về Ngài. Nó gần giống như phản ứng của các người Do thái hy hóa và các triết gia ngoại giáo chống lại những lối trình bày nhân hình về Thiên Chúa. Với lại ta không thấy một giáo huấn nào tương tự trong Cựu ước cả. Vì vậy có kẻ nghĩ rằng lời xác quyết của Gioan ở đây mang nguồn gốc Hy lạp. Tuy nhiên, không nên giả thiết một sự vay mượn như thề vì giáo thuyết của Gioan về Thần khí nối dài giáo thuyết của Cựu ước, theo đó thì Thần khí không phải là cách hiện hữu đối nghịch với vật chất, nhưng là hoạt động sáng tạo của Thiên Chúa nhằm phát sinh sự sống. Đó cũng là ý nghĩa cơ bản mà ta thường gặp nơi Gioan (3, 5-8; 6, 63; 7,38; 14, 17-19). Thành ra phải kết luận rằng ớ đây Gioan không có ý chống lại những cái nhìn vật chất, như nhìn về Thiên Chúa, song chỉ muốn xác nhận quyền năng đáng tạo sự sống của Ngài.

 

KẾT LUẬN

 

Qua việc dùng các tước hiệu khác nhau, những tước hiệu mời gọi niềm tin dần dần, trang sách này của thánh Gioan đã mặc khải một khía cạnh cơ bản trong mầu nhiệm Chúa Giêsu. Lúc đầu, Người chỉ là một lữ khách vô danh. Sau đó, thiếu phụ Samari khám phá ra Người là một người Do thái (c. 9). Khi nghe lời hứa kỳ lạ về một thứ nước sống, bà hỏi Người: "Dễ chừng Ngài lại lớn hơn Giacóp cha chúng tôi sao?" (c. 12). Lúc nhìn thấy là Người đã thấu rõ bí mật đời tư của mình, bà mới nhận ra Người là một ngôn sứ (c. 19). Sau cùng, khi Chúa Giêsu đã mặc khải cách hoàn toàn rồi, bà phỏng đoán Người có lẽ là Đấng Kitô (c.29). Nhưng chính dân thành Samari, hoa quả đầu mùa của các dân tộc, mới tuyên xưng đức tin của họ vào Chúa Giêsu "Đấng Cứu Thế" (c.42). Từ đầu đến cuối, việc mặc khải vẫn nằm trong viễn ảnh lịch sử cứu độ. Các chương Tin Mừng khác mặc khải Chúa Giêsu là Đấng Thiên Chúa sai đến và là Con Chúa Cha. "Kitô" và "Con Thiên Chúa" là hai tước hiệu căn bản của bản tuyên tín theo thánh Gioan (20,31). Còn “Đấng Cứu Thế" là tước hiệu tổng hợp: Kẻ đã đến như ánh sáng trần gian (8,12; 12,46), như Người mặc khải, như Đấng Kitô, là chính Con Một được Thiên Chúa sai đến để cứu rỗi thế gian và cho mọi người có sự sống vĩnh cửu trong mình (3, 16-18).

 

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

 

1)Chúa Giêsu khai mào câu chuyện với thiếu phụ Samari bằng cách khêu gợi tính tò mò của bà. Người tự đặt mình vào thực tế tầm thường của đời sống thường nhật, vào hoàn cảnh của kẻ phải mệt mỏi kín nước đều đều, để rồi làm cho bà cảm thấy không phải chỉ cần có thứ nước ấy mới sống được, không phải chỉ có những thực tại vật chất là đáng kể trong đời sống. Hôm nay đây, Chúa còn hiện diện trong cuộc sống thường ngày của ta. Ta có biết nhận ra Người chăng? Có chấp nhận đối thoại với Người? Có đồng ý là không phải chỉ những thực tại vật chất mới đáng kể trong đời sống của ta Có cố gắng để đừng bị vật chất chi phối chăng? Vì không chỉ có thứ nước tự nhiên mà thôi, song còn thứ nước siêu nhiên vọt đến sự sống vĩnh cửu. Cuộc đời của ta còn phải được nuôi dưỡng bằng việc cầu nguyện và tôn thờ Thiên Chúa.

 

2)“Ai uống nước giiếng này, sẽ còn khát lại" (c.13). Nước này không giải khát thật sự, nó vừa tạm thời xoa dịu cơn khát, vừa duy trì và kích thích cơn khát. Ai lại không biết cái chu kỳ quỷ quái của dục vọng, luôn luôn tái phát, chẳng bao giờ nó thỏa; ai mà không cảm thấy các nhu cầu được thỏa mãn cứ trào lên vô tận, thúc đẩy mình hưởng thụ cách nào đó: càng khát, lại càng uống, càng uống lại càng khát! Và luôn luôn theo lối lý luận ích kỷ ấy mà người thiếu phụ Samari đón nghe những lại của Chúa Giêsu về nước sống và tìm cách lợi dụng cơ hội: xin Ngài ban cho tôi thứ nước ấy để tôi hết khát và khỏi đến cây múc nước" (c.15). Một ngộ nhận như thế cũng gặp thấy nơi người Do thái trong diễn từ Bánh sự sống: thưa Ngài, hãy luôn luôn cho chúng tôi bánh ấy" (6,34). Theo bản năng tự nhiên, ta có khuynh hướng muốn chụp lấy ơn Thiên Chúa như một thứ bảo hiểm sinh mạng khả dĩ miễn cho mình lăn lộn với đời, như một số vốn mang lại nhiều lợi giúp mình mãi mãi an cư, muốn thứ bánh, thứ nước Ngài ban cho ấy trở thành kho vô tận, dùng mãi không bao giờ cạn. Nhưng ơn Thiên Chúa đâu có muốn giản lược ta vào trong sự thỏa mãn cái tính cách dinh dưỡng đó: “Ai uống nước Ta sẽ ban, thì đời đời sẽ không khát nữa" Chúa Giêsu bảo vậy (c.14). người không giữ nước ấy trong một bình đóng kín, bưng bít một cách ích kỷ. Trái lại, nước Ta sẽ ban cho nó sẽ trở nên trong nó một suối nước vọt đến sự sống đời đời" (c.14). Nước sống ấy có sức giải khát vì, vượt ra ngoài-bản năng bảo tồn, nó làm phát sinh trong ta chính nguồn sống, và dạy chúng ta rằng sống chính là trao ban, là chia sẻ không tính toán, là phun trào ra mà không giữ lại.

 

3)Cuộc đối thoại chuyển qua hướng mới với mệnh lệnh của Chúa Giêsu: “Hãy đi gọi chồng bà...". Để cho thiếu phụ Samari hiểu và đón nhận ơn Thiên Chúa, Chúa Giêsu đột ngột đề cập đến bí mật đời tư của bà. Trong lãnh vực này, cơn khát của người đàn bà, cơn khát tình yêu, cũng chẳng được thỏa mãn; thiếu phụ đã có năm đời chồng và người đang sống với bà hiện giờ không phải là chồng đích thực (c.18). Giống như nước mà bà phải đến múc uống luôn song chẳng đã khát, những nỗ lực tình yêu liên tiếp của bà đã làm bà thất vọng và đẩy bà vào nỗi cô đơn. Mục đích của Chúa Giêsu không phải là đem người thiếu phụ trở về thái độ sám hối song là cho bà thấy, như đã cho Nathanael thấy (1, 47-50). Người thông suốt lạ lùng, là khiến bà cúi đầu trước uy nhan của vị Ngôn sứ và từ đó chuẩn bị cho bà lãnh hội mặc khải của Thần khí. Thực vậy, không một tiếng quở trách, không một lời khuyến khích nào trên môi miệng Chúa Giêsu; không một tâm trạng tội lỗi, không một giọng thống hối nơi người đàn bà; nhưng chỉ có một lời khen ngợi đầy vẻ ngạc nhiên: thưa Ngài, tôi thấy Ngài là một ngôn sứ (c.19), và sau đó, trong câu nói với dân làng: một người đã bảo cho tôi biết mọi sự tôi đã làm (c.9). Nếu có chuyện tội chăng nữa, thì vấn đề không phải chỗ đó, hoặc hình như bị gác ngay qua một bên. Với ánh mắt nhân từ và sáng suốt, Chúa Giêsu cũng mời gọi ta hãy nhìn thăng mình không chút tự mãn song cũng chẳng chút xấu hổ, cay đắng và thất vọng. Đặc biệt Người muốn dẫn đưa ta đến chỗ nhìn nhận Người là vị "Ngôn sứ Thiên Chúa sai đến, là Đấng mặc khải về bản tính nhân loại đích thực của ta, là Đấng giúp ta khám phá ý nghĩa và không chiều kích của cơn đói khát trong ta, là Đấng tố cáo những mưu kế mà ta dùng để đánh lừa hoặc thỏa mãn cơn khát ấy một cách rẻ tiền. là Đấng dạy cho ta biết sống và trào dâng nước sống của ơn Chúa.

 


 

Suy niệm của JKN

Câu hỏi gợi ý:

 

1. Có thực tại trần gian nào thỏa mãn được những khát vọng vô hạn của con người không? Những thực tại siêu nhiên thì sao? Thực tại nào có thể thỏa mãn những khát vọng của con người để họ được hạnh phúc?

 

2. Người ta có luôn luôn thật sự gặp gỡ Thiên Chúa trong kinh nguyện, trong thánh lễ, trong các bí tích không? Muốn thật sự gặp gỡ Thiên Chúa phải có những yếu tố nào?

 

3. Thế nào là thờ phượng, gặp gỡ Thiên Chúa “trong thần khí và sự thật”?

 

Suy tư gợi ý:

 

1. Khát vọng của con người không bao giờ được thỏa mãn

 

Khát nước, đó là tình trạng thiếu thốn mà ai cũng đều kinh nghiệm hằng ngày. Khát nước đòi người ta phải uống nước để thỏa mãn cơn khát. Nếu không thỏa mãn, con người sẽ bị cơn khát dằn vặt rất đau khổ. Uống rồi thì hết khát, nhưng chỉ một thời gian (một tiếng hay hai tiếng sau) cơn khát lại trở lại, và cứ thế mãi. Đói cũng tương tự như khát. Ngoài nước uống và thức ăn, con người còn đói khát nhiều chuyện khác: tình cảm, tình yêu, tình dục, tiếng khen, tiền bạc, địa vị, quyền lực, hiểu biết, trở nên hoàn hảo… Nhưng tất cả những thứ ấy, dù đạt được như lòng mong ước, thì con người cũng chỉ thỏa mãn một thời gian rất ngắn, để rồi lại tiếp tục cảm thấy thiếu thốn. Nếu không tiếp tục thỏa mãn, con người cảm thấy đau khổ. Khi không có chiếc xe đạp, ta cảm thấy thiếu và mong có được chiếc xe đạp. Khi đã có chiếc xe đạp, ta lại thấy thiếu và mong có chiếc gắn máy… Cứ thế, chẳng bao giờ ta hết thiếu thốn, ết đói khát, hay hết khát vọng cả. Hạnh phúc của con người vì thế chỉ luôn luôn tạm thời: được no đủ trong giây lát để rồi lại đói khát triền miên.

 

Như vậy, con người cứ phải nô lệ cho những cơn khát đủ loại của mình, cứ phải vất vả để tìm đủ cách thỏa mãn chúng. Trong khi tìm cách thỏa mãn chúng, nhiều khi con người phải hy sinh cả gì mình quí nhất: mạng sống, lương tâm, tình cảm vợ chồng, tình nghĩa anh em… Vì thế, cơn khát này chưa được thỏa mãn thì mình lại gây nên những cơn khát loại khác. Cứ thế mà con người lâm vào vô số những vòng luẩn quẩn trói chặt con người vào đau khổ.

 

2. Làm sao để hết khát vọng? để khỏi đau khổ?

 

Đức Giêsu nói: “Ai uống nước này, sẽ lại khát”. Thật vậy, những cách thỏa mãn khát vọng của con người đều chỉ là tạm thời. Được thỏa mãn rồi lại tiếp tục khát vọng. Khát vọng siêu đẳng nhất của con người là muốn có một giải pháp để thỏa mãn vĩnh viễn mọi khát vọng, và không còn phải khát vọng nữa. Làm sao có được giải pháp đó trên đời? Đức Giêsu đã cho ta biết Ngài có giải pháp đó: “Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời”. Ngài cho biết giải pháp của Ngài sẽ trở thành “một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời” nơi người dùng giải pháp ấy. Có sẵn trong người một mạch nước thì ta sẽ không bao giờ khát nữa, mà trái lại còn có thể làm thỏa mãn cơn khát của người khác. Mạch nước ấy “đem lại sự sống đời đời”. Mạch nước ấy là gì? Là chính Thiên Chúa, được hiện thân thành Đức Ki-tô. Chỉ cần thật sự gặp gỡ Thiên Chúa hay Đức Ki-tô, ta sẽ có được mạch nước đem lại sự sống ấy ở trong ta. Lịch sử Giáo Hội cho thấy nhờ thật sự gặp được Thiên Chúa, các vị thánh đã được biến đổi hoàn toàn, các ngài cảm thấy hạnh phúc vô biên bất chấp nghịch cảnh, đã yêu thương và có một sức mạnh tinh thần rất lớn để dấn thân và hy sinh cho Thiên Chúa và đồng loại không mệt mỏi. Vậy vấn đề mấu chốt là thật sự gặp gỡ Thiên Chúa hay Đức Ki-tô.

 

3. Làm sao để thật sự gặp gỡ Thiên Chúa?

 

Nhiều khi ta đến để gặp Chúa – trong nhà thờ, bằng đọc kinh cầu nguyện, bằng việc dâng thánh lễ, v.v… – nhưng ta lại không thật sự gặp được Chúa. Ta cầu nguyện, đi lễ theo thói quen, theo giờ giấc, theo luật buộc, một cách hoàn toàn hình thức. Ta đối diện với Chúa trước nhà tạm, ta rước Chúa vào tận trong lòng mình, nhưng ta vẫn không thật sự gặp Chúa. Cũng như các kinh sĩ Do Thái xưa, họ nói chuyện với Chúa, ở bên cạnh Chúa, đối diện với Chúa, nhưng không gặp Chúa. Cổ nhân có câu: “Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ, vô duyên đối diện bất tương phùng” (Có duyên với nhau thì dù xa ngàn dặm cũng vẫn gặp được nhau, không có duyên với nhau thì dù có mặt đối mặt cũng không gặp nhau). Như thế, sự gặp gỡ thật sự đòi hỏi phải có “duyên” với nhau, có sự đồng cảm, sự giống nhau nào đó. Cổ nhân còn nói: “Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu” (Cùng âm thanh thì phụ họa nhau, cùng tính tình, khuynh hướng, tài năng thì tìm gặp nhau). Bản chất của Thiên Chúa là tình yêu, nên chỉ những ai biết yêu thương – nghĩa là giống Thiên Chúa – mới có thể gặp gỡ Thiên Chúa một cách đích thực: “Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa” (1Ga 4,7a-8). Chữ “biết” ở đây có nghĩa là cảm nghiệm, gặp gỡ Thiên Chúa. Vì thế, kẻ gian ác, kẻ ghen ghét, người không biết yêu thương thì không thể gặp được Thiên Chúa.

 

Đức Giêsu nói: “Đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giê-ru-sa-lem”. Như vậy, để gặp gỡ Thiên Chúa, thì không gian – tức chỗ này chỗ kia – không phải là chuyện quan trọng: “Đấng Tối Cao không ở trong những ngôi nhà do tay người phàm làm ra” (Cv 7,48). Đức Giêsu cũng nói: “Giờ đã đến – và chính là lúc này đây – những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật”. Như vậy, muốn thật sự gặp gỡ Thiên Chúa, ta cũng phải gặp gỡ Ngài trong thần khí và sự thật.

 

4. Gặp gỡ Thiên Chúa trong thần khí và sự thật

 

Để giải thích điều này, Đức Giêsu nói: “Thiên Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật”. Nếu Thiên Chúa là thần khí, thì để gặp Ngài, con người cũng phải dùng thần khí của mình – tức tâm hồn mình – để gặp Ngài. Vì chỉ có thần khí mới gặp được và hòa nhập được với thần khí. Như vậy nghĩa là phải gặp Ngài trong chính tâm hồn mình. Thật vậy, nơi dễ gặp gỡ Thiên Chúa nhất, chính là cung lòng của mỗi người chúng ta. Không gì linh thánh bằng con người, hay tâm hồn con người, vì “con người là hình ảnh của Thiên Chúa” (St 1,26-27; 9,6; Kn 2,23). Và cũng không nơi nào linh thiêng bằng cung lòng con người: “Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao? Đền Thờ Thiên Chúa là nơi thánh, và Đền Thờ ấy chính là anh em” (1Cr 3,17; x. 6,19). Có gặp được Thiên Chúa ở ngay cung lòng mình, mình mới có thể gặp gỡ Thiên Chúa ở nơi khác, trong Thánh Thể, trong nhà thờ, trong tha nhân, trong thiên nhiên. Thiên Chúa ở ngay cung lòng mình mà mình không gặp được, thì mong gì gặp được Thiên Chúa ở bên ngoài. Thánh Âu-Tinh đã từng than thở: “Con đã tìm Chúa ở ngoài con, nên con đã không gặp được Chúa của lòng con” (Confession, cuốn VI, chương 1).

 

Muốn thật sự gặp gỡ Thiên Chúa, còn phải gặp Ngài trong sự thật. Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa của sự thật, vì thế, người gian dối, không thành thật với lòng mình, với mọi người, và với Thiên Chúa, thì không thể gặp được Ngài. Như vậy để thật sự gặp được Thiên Chúa, cần phải có một tâm hồn ngay thẳng, thành thật, chân chất, “có nói có, không nói không” (Mt 5,36), không quanh quéo, uẩn khúc. Không thể gặp được Thiên Chúa những người nghĩ một đằng, nói một ngả, hay nói một đằng, làm một nẻo.

 

Cầu nguyện

 

Tôi nghe thấy tiếng Chúa: “Đã đến lúc trình độ tâm linh con người phải tiến cao hơn một bậc nữa. Con người không nên thờ phượng Thiên Chúa theo kiểu vụ hình thức, vụ không gian, vụ thời gian, vụ vật chất nữa. Con người cần thờ phượng và gặp gỡ Thiên Chúa bằng thần khí chứ không phải qua vật chất, qua hình thức nữa. Con người cần gặp gỡ Thiên Chúa ngay trong bản thân mình hơn là ở một nơi nào bên ngoài. Con người cần hiểu biết Thiên Chúa theo sự thật, bằng chính bản chất của Ngài hơn là bằng những hiện tượng, danh từ, ngôn ngữ hay cách diễn tả đặc thù của mỗi tôn giáo, mỗi nền văn hóa. Có gặp gỡ Thiên Chúa đích thực, con người mới được biến đổi để trở nên hoàn hảo và hạnh phúc hơn” 

 



Cơn Khát

Ga 4:5-42

An Phong, OP

Chúa Giêsu đi đường mỏi mệt nên ngồi xuống trên bờ giếng"; và Ngài nói với người phụ nữ Samari "Chị cho tôi xin chút nước uống". Chúa Giêsu xuống trần gian để chia sẻ kiếp sống của con người; Ngài cũng là một con người cụ thể, có những khó khăn của cuộc sống, có những vấn đề phải lo toan, có những vất vả đắng cay của một kiếp người như tất cả chúng ta. Chúa Giêsu cũng trải qua sự mỏi mệt và cơn khát của cuộc sống con người. Ðừng ai nói rằng chỉ một mình tôi khổ nhất, chỉ một mình tôi bất hạnh nhất, cuộc đời của tôi khốn nạn nhất; vì đã có một Vị Thiên Chúa làm người và Ngài cũng "mỏi mệt", cũng "khát" như tất cả chúng ta.

Tuy nhiên, dân Israen đã khát và đã kêu than trách móc; người thiếu phụ Samari đã khát và mong chờ Chúa Giêsu cho mình một thứ nước uống vật chất, bà được "hết khát và khỏi đến đây lấy nước". Còn Chúa Giêsu, được chia sẻ cơn khát của con người, Ngài lại càng ước mong ban tặng một thứ Nước Trường Sinh có thể giúp nhân loại khỏi khát. Nước đó chính là bản thân Chúa Giêsu, là ơn Cứu độ của Chúa Giêsu, là Ðấng có thể giải quyết "cơn khát" sâu xa giằng xé con người: "Ðấng ấy chính là Ta, Người đang nói với chị đây."

Cơn khát trong sa mạc cuộc đời vẫn luôn là "Maxa" và "Mêriba", nghĩa là vẫn là nơi "thử thách" và "gây chuyện". Nếu chúng ta cứ kêu than và trách móc; nếu chúng ta cứ tưởng có thể "giải khát" bằng những thứ "nước tiền tài", "nước cơm bánh", "nước danh vọng", thì chúng ta đang tiếp tục cuộc thách thức Chúa như người Israen xưa.

Ngược lại, nếu chúng ta tin vào Chúa Giêsu Kitô, Ðấng duy nhất có thể ban "Nước" để "ai uống Nước Tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa", thì chúng ta cũng sẽ được cứu độ như người Samari; và được vui mừng như "Dân Samari xin Người ở lại với họ"… "vì chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Vị Cứu tinh của trần gian."

Con mang vác nặng quá rồi, Chúa ơi !
Con chịu đựng không nổi nữa !
Con đường con đi, chưa dài lắm
Nhưng quá khứ đã đủ chất chồng;
Con đã sống bao biến cố tang thương.
Và nhiều lúc con xây xẩm mặt mày.

Con mang vác nặng quá rồi, Chúa ơi !
Con chịu đựng không nổi nữa !

Nhưng hôm nay… Lạy Chúa !
Có phải con mơ không ?
Con tin mình đã tìm thấy
Ðiều mà từ lâu Chúa chờ đợi nơi con.
Con tình cờ đọc được
câu Thánh vịnh in nơi tấm hình:

"Hãy vứt bỏ những lo lắng trong Chúa
và chính Ngài sẽ nâng đỡ con luôn."
Và con tin rằng, qua lời kinh đó,
Chúa đang thực sự nói với con.
(Michel Quoist)



KỲ THÚ

Ga 4:5-42

Như Hạ, OP

Nhân loại có cần đươc cứu độ không ? Hình như nhu cầu hằng ngày đã lấn lướt mọi nhu cầu khác và nhất là không liên quan gì tới ơn cứu độ. Nhưng chính từ những nhu cầu ăn uống tầm thường hằng ngày, Ðức Giêsu đã mạc khải chân lý vĩ đại.

TỪ ÐỘC THOẠI TỚI ÐỐI THOẠI

Thật là thú vị khi theo dõi cuộc đối thoại giữa Ðức Giêsu và phụ nữ Samari tại bờ giếng Giacóp. Bình thường không thể có cuộc đối thoại như thế, vì "người Do thái không được giao thiệp với người Samari." (Ga 4:9) Nhưng một ranh giới đã vượt qua, khi Ðức Giêsu khéo léo bắt chuyện: "Chị cho tội xin chút nước uống !" (Ga 4:7) Thường người ta chỉ ra kín nước ban sáng hay chiều. Chị đã cố ý ra giếng buổi trưa để tránh né những cái nhìn xăm xoi vào đời tư, vậy mà cũng không thoát khỏi. Nhưng cuộc gặp gỡ vượt quá sức tưởng tượng ban đầu.

Cuộc đối thoại nhiều lần như bị khựng lạiNhiều lần có nguy cơ trở thành độc thoại. Vừa mở miệng, Ðức Giêsu đã bị người phụ nữ "kê tủ đứng" rồi: "Ông là người Do thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Samari, cho ông nước uống sao ?" (Ga 4:8) Nhưng Ðức Giêsu đã khai thông bế tắc một cách dễ dàng. Trước tiên, Người muốn cho chị khám phá con người đang đối diện với chị không phải chỉ là một tập hợp những yếu tố vật chất với những nhu cầu tầm thườngNhưng đó là "ân huệ Thiên Chúa" (Ga 4:10) vô cùng vĩ đại mà chị không nhận ra Vĩ đại vì từ nơi Người mạch "nước hằng sống" (Ga 4:10) sẽ tuôn trào cho toàn thể nhân loại. Ðức Giêsu muốn chứng tỏ mình là Thiên sai. Vì "chỉ có Thiên sai mới có thể làm cho con người thỏa niềm ước mong." (Life Application Study Bible 1991:1880) Cựu Ước từng tôn xưng Thiên Chúa là mạch nước hằng sống (Tv 36:9) và là suối nước trường sinh (Gr 17:13). Trong khi phụ nữ đó đề cao tổ phụ Giacóp như ân nhân của dân làng vì đã cung cấp nguồn nước cho bao thế hệ, Ðức Giêsu lại muốn cho chị thấy mình trổi vượt hơn tổ phụ, vì "ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa." (Ga 4:14)

Nói đến thế mà chị vẫn chưa hiểu ! Ðúng là cảnh "ông nói gà, bà nói vịt" Ðức Giêsu tìm cách tháo gỡ dần dần cái vòng luẩn quẩn đóChị giật mình khi tất cả đời tư bị phơi bày ra ánh sáng. Làm sao một người xa lạ như Ðức Giêsu có thể biết được chuyện chồng con của chị ?! Cứ tưởng Người như tất cả thanh niên khác, chị lấm lét thở dài: "Tôi không có chồng." (Ga 4:17). Chị muốn làm một lá chắn thật dầy để che đậy tất cả bí mật màn the. Ðức Giêsu cảm thấy thương hại cho người phụ nữ SamariNgười không kết án chị là người dối tráTrái lại, Người dựa ngay vào lời chị để mạc khải một sự thật khiến chị phải thốt lên: "Thưa ông, tôi thấy ông thật là một ngôn sứ …" (Ga 4:19) Câu truyện đi vào khúc rẽ quan trọng. Một mạc khải lóe lên ngay trong đời thườngPhải lên núi cao biến hình, Ðức Giêsu mới có thể mạc khải cho các môn đệ sự thật về mình. Ngay cả khi vào sa mạc chịu cám dỗ, phải có Thánh Linh hướng dẫn, Ðức Giêsu mới xác định được căn tính giữa những tương quan chằng chịt trong trời đất

Mỗi mạc khải đều kèm theo một lời mời gọiKhi nhận ra Ðức Giêsu là ngôn sứ, chị được kêu mời trở về với Thiên Chúa thật, một Thiên Chúa không lệ thuộc vào nơi chốn hay con ngườiQuả thực, "giờ đã đến - và chính là lúc này đây - giờ những người thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật vì Thiên Chúa là thần khí" (Ga 4:23-24) Những đầu óc đặc sệt vật chất không thể hiểu nổi Thiên ChúaBởi vậy, họ đóng khung Thiên Chúa trong những phạm trù hoàn toàn trần tụcNhững tâm trí đó không thể thấy những nét kỳ diệu trong cuộc đối thoại vô cùng lý thú bên bờ giếng Giacóp hôm nay

Nhờ sống lâu trong truyền thống tôn giáo, chị đã hiểu ngay được vấn đề khi nhìn nhận Ðức Giêsu là ngôn sứ. Ngay từ nhỏ chị đã được nghe mạc khải về thời kỳ cứu độ: "Tôi biết Ðấng Mêsia, gọi là Ðức Kitô, sẽ đếnKhi Người đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự." (Ga 4:25) Chụp ngay cơ hội, Ðức Giêsu nói tất cả sự thật về mình: "Ðấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây." (Ga 4:26) Niềm tin lên tới tột đỉnh khi chị nghe thấy trong lời Ðức Giêsu vang vọng tiếng Giavê tự xác định chính mình với ông Môsê bên Ai cập (x. Xh 3:14) Tới đây chị không thể kìm hãm nổi tiếng thôi thúc trong tim nữaVô cùng kinh ngạc và sung sướng, "người phụ nữ để vò nước lại, vào thành và nói với người ta: 'Ðến mà xem: có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làmÔng ấy không phải là Ðấng Kitô sao ?'" (Ga 4:28-29) Phải chăng chị đã bỏ lại đằng sau tất cả biểu tượng của niềm tin cũ (vò nước bên bờ giếng Giacóp) để lao tới trước theo tiếng gọi của niềm tin mới vào Ðức Giêsu ? Chị đã trở thành người loan báo Tin Mừng đầu tiên cho dân làngThực vậy, "có nhiều người Samari trong thành đó đã tin vào Ðức Giêsu, vì lời người phụ nữ làm chứng." (Ga 4:39) Dầu sao, người rao giảng Tin Mừng cũng chỉ đóng vai trung gian. Muốn được cứu độ, người ta phải đích thân băng qua cầu đó. Sự thật ấy đã được các dân làng Samari chứng minh: "Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Ðấng cứu độ trần gian." (Ga 4:42)

Bên cạnh cuộc đối thoại thú vị với phụ nữ Samari, Ðức Giêsu còn lợi dụng mấy giây phút ngắn ngủi hàn huyên với các môn đệ để mạc khải một chân lý vĩ đại. Cũng như phụ nữ Samari, đầu óc các ông chỉ "sà sà ngọn cỏ" Từ chủ đề "nước", Ðức Giêsu đã nói về "nước hằng sống" là Thánh Linh, mạc khải về bản chất Thiên Chúa là "thần khí", và chính mình như "một ngôn sứ", "Ðấng Mêsia, gọi là Ðức Kitô" và "Ðấng cứu độ trần gian". Còn chủ đề "lương thực" đưa tới một sự thật: "lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Ðấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người." (Ga 4:34). Như thế Người đã mạc khải về bản chất và sứ mạng của Ba Ngôi trong công cuộc cứu độ toàn thể nhân loại. Nhờ kiên nhẫn, Ðức Giêsu đã biến phụ nữ Samari và các môn đệ thành những chứng nhân và sứ giả Tin Mừng.

CHỨNG TỪ SỐNG ÐỘNG.

Những sứ giả đó không được huấn luyện trong các trường đại học, nhưng ngay giữa chợ đời với những câu chuyện hằng ngày xoay quanh vấn đề ăn uống. Cơm áo là tầm thường ! Nhưng dưới cái nhìn của Ðức Giêsu, chẳng có gì tầm thường đến nỗi không thể vận dụng vào việc mạc khải những chân lý cao siêuNhiều lần người môn đệ cũng đã đối thoại với Thày chí thánh ngang qua những thực tế tầm thường trong cuộc sống. Nếu không, làm sao những anh chị em Ða Minh Việt Nam, chẳng hạn, có thể đem niềm an ủi đến cho đồng bào đau khổ trong các trại phong, khuyết tật, ung bướu hay đến các em kém may mắn không được cắp sách đến trường, những đồng bào thiểu số trên cao nguyên ? Khi cung cấp lương thực hay nguồn nước trong lành cho đồng bào, anh chị em đã gieo Tin Mừng hi vọng vào hoàn cảnh tăm tối của họ.

Những nỗ lực như thế vô cùng cần thiết để xoay đổi cục diện thế giới hôm nay. Các nhà lãnh đạo Công giáo và Hồi giáo Sunni đều cho rằng "lúc nào cũng cần phải chú ý tới các phương diện cơ bản của xã hội: đời sống gia đình, giáo dục, phát triển xã hội, ảnh hưởng thông tin đại chúng, cổ động công lý và tình liên đới trong những quốc gia và trên một tầm mức quốc tế." (Zenit, Feb. 27, 2002) Có những hạng người cực đoan không bao giờ lắng nghe lẽ phải. "Ðối thoại không đủ để chinh phục, nhưng cần phải cổ võ việc phát triển toàn diện" (Zenit, Feb. 27, 2002) mới lôi kéo những con người đóÐó là đường lối Ðức Giêsu chinh phục chị Samari và các môn đệ.



Nếu chị biết ân huệ Thiên Chúa ban

Ga 4:5-42

Fr. Jude Siciliano, OP

Thưa quý vị.

Mấy tháng nay ở vùng Bắc Carolina nước Mỹ trời hạn hán nặng. Vài cơn mưa rào tháng Giêng vừa qua được đón nhận như các trận mưa giải thoát. Hạn hán có các mức độ khác nhau tùy theo vùng. Vào thập niên 80 của thế kỷ trước, tôi sống ở bang California, trời làm hạn tới 7 năm liền. Các hồ chứa nước báo động từng ngày. Khách sạn không được phép đặt nước trên bàn ăn, trừ phi có yêu cầu đặc biệt. Cả bang không được rửa xe. Người ta chỉ được tắm bông sen thật nhanh. Cấm tắm bồn. Radio và Tivi liên tục nhắc nhớ tiết kiệm nước. Nhưng vì sức khỏe, cả bang North Carolina và bang California đều cho phép uống nước từ vòi chảy tùy thích. Tuy vậy, nhiều hộ vẫn lén lút tưới trộm các thảm cỏ xanh. Khí hậu ở các sa mạc còn tệ hại hơn, nhất là vào thời Kinh thánh chưa có kỹ thuật thủy lợi. Miền Palestine, nước không được chảy tự do. Nếu như thiếu nước hoặc bị phung phí thì có nghĩa là chết khát ! Vì thế nước giữ vai trò nổi bật trong các trình thuật Thánh kinh. Từ Cựu ước hình ảnh nước đã được nhấn mạnh. Nước đại hồng thủy. Nước giải thoát khỏi cảnh nô lệ Ại Cập - Sang đến Tân ước, Gioan tẩy giả làm phép rửa thống hối bằng nước sông Giođano. Chúa Giêsu ban nước hằng sống cho người đàn bà Samaria trong Tin Mừng hôm nay. Nước và Máu cứu độ từ cạnh sườn chảy ra trên cây thập tự.

Như vậy, chúng ta dễ dàng nhận ra mối liên hệ dân Kinh thánh đã mường tượng giữa nước và Thiên Chúa: Nước là ân huệ Chúa ban, là quà tặng, là dấu chỉ của người cha nhân lành. Thiên Chúa săn sóc dân Ngài qua hình ảnh ban nước cho dân và đàn súc vật của họ. Nước nói lên ý nghĩa biểu chưng cho sự sống, nó còn ám chỉ chúng ta phải hoàn toàn lệ thuộc vào Ngài về vật chất cũng như tinh thần. Không được Ngài liên tục nâng đỡ, dân Chúa sẽ héo khô như cây cỏ thiếu nước dưới ánh nắng mặt trời gay gắt như thiêu như đốt. Bài đọc sách Xuất hành hôm nay đặt dân Do thái vào giữa hoang địa khô cằn dưới chân núi Horeb. Họ phàn nàn vì thiếu nước. Horeb có nghĩa là "Khô". Xét về phương diện tinh thần thì ở giai đoạn này đúng là họ đang "khát" Thiên Chúa. Họ cần Ngài để đủ can đảm tiến bước vào sa mạc, lang thang suốt 40 năm trong hoang địa. Vậy mà họ chưa học được phải cậy trông Thiên Chúa ra sao ! Họ nhìn khắp chung quanh chỉ toàn là đe dọa. Tai họa có mặt khắp mọi nơi. Khát là một từ đầu lưỡi, bởi làm gì có nước trong sa mạc ? Vậy thì Thượng đế ở đâu ? Cái gì đã lôi cuốn họ đi theo Môsê và Thiên Chúa vô hình vào cái nóng ghê hồn của hoang địa "Horeb" ?

Cuộc đời của mỗi người chúng ta cũng có những giây phút đầy thử thách như thế. Chúng ta bắt buộc phải "ra đi" vào những hành trình dài thăm thẳm về tinh thần cũng như vật chất. Cụ thể là cuộc sống khó khăn hàng ngày. Chúng ta cần phải thay đổi liên tục để có thể thăng tiến: Tìm kiếm tư vấn cho các nhu cầu của cuộc sống. Cần giúp đỡ để đối phó với tính hư nết xấu. Rời bỏ cương vị béo bở để có một nếp sống trong sạch và ý nghĩa hơn. Kiếm thêm thời giờ rảnh rỗi để giúp đỡ những kẻ bất hạnh. Chấm dứt đàng điếm với bạn bè xấu thói. Thôi không hút thuốc gây hại cho thiên hạ. Ở nhà để giáo dục con cái tốt hơn. Theo tiếng Chúa gọi đi truyền giáo miền đất xa lạ … Dẫu rằng bước ban đầu đầy khó khăn, bấp bênh và sợ hãi. Nó đòi hỏi bỏ lại đàng sau tiền tài, danh vọng, nếp sống ấm cúng cũ. Nhưng lời hứa hẹn những thứ tốt đẹp hơn thúc giục chúng ta tiến bước. Thí dụ kiêng ăn để được một thân hình mảnh dẻ cân đối hơn làm chúng ta khốn khổ, nhưng với hy vọng được thiên hạ khâm phục, chúng ta vẫn cứ tiến hành. Những điều quan trọng còn đòi hỏi hơn nhiều.

Vì thế con đường dẫn đến tự do tinh thần không thể không có khó khăn và hy sinh. Sự đổi thay có thể là rất dài, gập ghềnh và nhiêu khê. Thử hỏi dân Israel, con đường thoát khỏi nô lệ của họ lâu bao nhiêu ? Không dưới 40 năm ròng. Khó khăn thì chồng chất. Cố gắng lắm họ mới theo được tiếng gọi của Môsê đi vào hoang địa, và trung thành với thuở ban đầu. Cuộc đời nào mà chẳng có khía cạnh sù sì của nó. Nhìn lại quá khứ là bước vào cảnh nô lệ một lần nữa. Ðó là những cảnh nản chí, kêu ca của dân Do thái trong bài đọc một hôm nay. Chẳng lẽ chúng ta muốn lặp lại ?

Thánh Phaolô đã ngăn cản được tín hữu thành Roma làm điều đó. Ngài nhắc nhớ họ: "Anh em đã được công chính hóa nhờ đức tin". Ðối với người Do thái, đức tin đó là của Abraham. Còn với các tín hữu là của phép rửa tội. Nó là khởi đầu của đời sống mới, không phải do sức riêng mình, mà đến từ Thiên Chúa. Hay như Chúa Giêsu tuyên bố trong Phúc Âm hôm nay: "Nếu chị biết ân huệ Thiên Chúa ban". Tất cả đều là ân sủng. Chúng ta chẳng thể ép buộc ân sủng xảy đến cho mình, chúng ta cũng chẳng thể sản xuất ra nước trong hoang địa. Nhưng chúng ta cần ân sủng để sống còn. Nước - hình ảnh nhắc nhớ về Thiên Chúa - chúng ta đói khát, nhưng chẳng thể nào tự liệu được cho mình.Vậy mà chúng ta cần có nó hàng ngày để tiến thêm một bước trên con đường tiến đến tự do.

Thế thì, hiện thời chúng ta đang ở chặng nào trên con đường đó ? Ðói khát ra sao ? Thỏa mãn với những điều kém hơn Thiên Chúa ? Nhìn chung quanh toàn là bế tắc trong cơn khát cùng cực ? Xin hãy nhớ lại Thiên Chúa của Xuất hành. Thiên Chúa đầy hai tay những bất ngờ cho Dân Ngài ! Họ đang bị dồn vào điểm chết: Bờ biển sậy và vua quan Ai cập sau lưng ! Ðột nhiên biển mở ra - Họ băng qua biển khô chân. Họ chết đói trong sa mạc - Chúa ban Manna bởi trời. Và lúc này họ thiếu nước đến chết khát - Chúa truyền lệnh cho Môsê dùng gậy đập đá, đá vọt ra nước. Cây gậy giải phóng hay quyền năng Thượng đế ? Chính Thượng đế chịu trách nhiệm trên dân Ngài và Ngài đã ra lệnh để dân Ngài được cứu thóat. Cho nên không phải những đe dọa vật chất mà là sự sợ hãi nội tâm, sự mất tin tưởng vào Thiên Chúa gây nên những lo lắng ghê gớm cho chúng ta.

Ngày nay Thiên Chúa còn ở với chúng ta nữa không ? Hàng ngày chúng ta vẫn kêu ca như dân tộc Israel xưa. Liệu Chúa còn đáp lời, thực hiện những phép lạ ? Liệu Ngài còn khả năng giải cứu ? Thánh Phaolô nói rằng chúng ta đã được làm nên công chính nhờ đức tin. Chúng ta tin vào Thiên Chúa và ân huệ hằng sống của Ngài. Chính bởi vì chúng ta thiếu thốn mà ân sủng được ban. No đủ rồi thì cần chi nữa mà ban ơn ? Cầu nguyện hoàn hảo rồi thì cần chi đến ơn lành ? Chu toàn mọi lời giáo huấn rồi, trợ giúp làm chi ? Cho nên ân ban là bởi vì nhu cầu. Vậy thì ân sủng vượt ngoài khả năng của chúng ta. Ai đó sẽ giơ gậy đập tảng đá và nước sẽ chảy ra. Truyền thuyết ngoài Kinh thánh kể rằng hòn đá Môsê lấy nước di chuyển với dân Do thái suốt hành trình sa mạc và ban nước khi dân cần. Truyện đó thật không ? Có thể là thật cũng có thể là không. Ðiều muốn nói là Thiên Chúa luôn di chuyển với chúng ta, không phải như tảng đá lúc nào cũng sẵn sàng sản xuất nước. Mà như người cha săn sóc con cái trên mỗi chặng đường khó khăn để chúng ta được giải cứu. Câu truyện sau đây khó tin nhưng có thật. Bởi do chính nhân vật trong truyện nói ra: Một người bị ung thư khoe rằng nếu được cơ hội tránh bệnh, thì phản ứng của anh sẽ là không ! Bởi lẽ nhờ mắc bệnh, anh đã tìm được đời sống mới ! khó tin thật. Làm sao người ấy đủ can đảm nói như thế ? Nhưng ai đó đã đập tảng đá cứng và nó đã vọt nước ra. Phép màu này có ngày nào đến với chúng ta không ? Thánh Phaolô dạy rằng chúng ta được công chínhhóa nhờ đức tin. Bây giờ chẳng thể chứng minh được điều đó. Nhưng khi cần, Chúa sẽ thực hiện. Bởi Ngài là đá tảng di chuyển với chúng ta luôn mãi trong hoang địa trần gian. Amen.

Ý KIẾN MỚI VỀ EVA

(của một độc giả nhân dịp mùa Chay).

Xưa nay vẫn có ý kiến rằng: Evà vì yếu đuối nên đã sa ngã.

Tôi nghĩ không phải vậy. Tư cách bà ta rất mạnh. Bà là người duy nhất được dựng nên không trực tiếp từ bụi đất mà từ xương thịt Ađam. Nói theo kiểu tân thời, nhân bản Ađam. Bà là người trước nhất tranh luận, suy tư và trả lời cho câu hỏi Thiên Chúa đã truyền dạy cái gì.

Như vậy bà là người đầu tiên làm thần học ! Lệnh cấm ăn trái cây biết lành, biết dữ đã ban cho Ađam khi bà chưa được "sinh" ra ! Con rắn hỏi: Các ngươi không được phép ăn hết mọi trái cây trong vườn sao ? Evà sửa lưng con rắn: Mọi trái cây trong vườn chúng tôi được ăn trừ trái cây ở giữa vườn thì không được, bởi Thiên Chúa đã bảo: Khi nào các người ăn hoặc động tới, các người phải chết. Chỉ người trực tiếp nghe lệnh truyền mới có thể thêm vào lệnh cụm từ "đụng vào trái hay cây". Người nghe gián tiếp thì thêm thế nào được. Trừ phi lệnh đó lại ban ra lần nữa cho Evà, ngoài ra là suy luận.

Con rắn hợp lý hóa lời dối trá: Chẳng chết chóc gì đâu. Nhưng Thiên Chúa biết ngày nào ông bà ăn trái cây đó, mắt ông bà sẽ mở ra và sẽ nên như những vị thần biết điều thiện, ác.

Evà suy nghĩ: ăn trái thì có 3 lợi ích, bổ dưỡng, đã thèm và khôn ngoan. Bà hái ăn, rồi đưa cho chồng cùng thưởng thức. Ađam chẳng cần suy nghĩ: ăn liền. Ai có cá tính mạnh mẽ hơn ? Sau đó Ađam hèn nhát đổ lỗi Thiên Chúa vì đã cho ông Evà. Evà đổ lỗi cho con rắn … Coi chừng chúng ta là Ađam khi không đắn đo phải trái và là Evà khi tra xét lời Chúa. Làm thần học mà !


CHÚA GIÊSU NGUỒN NƯỚC HẰNG SỐNG

(Ga 4, 5-42)

Fr. Jude Siciliano, OP.

Thưa quý vị,

Các Chúa nhật 3 và 4 mùa Chay đặt trước mắt tín hữu 3 biểu tượng lớn về đức tin. Đó là nước, ánh sáng và sự sống. Các biểu tượng này được thánh Gioan ưa thích sử dụng để miêu tả đời sống thiêng liêng trước ơn thánh của Thiên Chúa trong linh hồn chúng ta. Chúa nhật hôm nay là về nước, trong một dụ ngôn hết sức sống động: Câu chuyện Chúa xin nước uống nơi người phụ nữ Samaria ở giếng ông Gia-cóp.

Có lẽ đó là câu truyện của một bài giáo lý dự tòng thời Giáo hội sơ khai. Hội thánh sửa soạn họ để chịu phép rửa tội trong đêm vọng Phục sinh. Tuy câu truyện đơn giản nhưng ý nghĩa hết sức thâm thúy, nói về cuộc sống mới của người tín hữu, nhất là đời sống nội tâm của các tu sĩ, linh mục, hàng giáo phẩm. Càng suy ngẫm chúng ta càng thấm thía. Trước hết, chúng ta có thể đồng hóa với Chúa Giê-su trong cơn khát của Ngài, khi Ngài tiến gần giếng ông Gia-cóp. Rõ ràng Ngài cũng ở trong điều kiện hoàn toàn nhân loại như chúng ta: Chịu đói khát, nhọc nhằn vì hành trình xa xôi. Đường đi của Ngài là từ miền nam (xứ Giudea), ngang qua xứ Samaria (miền trung) về miền bắc (xứ Galilea), quê hương của Ngài, sau dịp lễ Vượt qua thứ nhất. Thánh Gioan viết: “Biết thế, Đức Giê-su bỏ miền Giudea mà trở lại miền Galilea. Do đó, Người phải băng qua Samaria (4,3)”. Người Do thái đạo đức thường tránh con đường này vì coi là đất lạc đạo. Họ đi đò vượt qua sông Giođan sang bờ phía đông, rồi lại đi đò lần nữa trên miền bắc để vào xứ Galilea. Con đường xa hơn nhiều so với đường tắt Samaria, nhưng tránh được đi vào đất thù địch. Chúa Giê-su chọn con đường tắt này và gặp chị phụ nữ Samaria ở giếng Gia-cóp vào buổi trưa, lúc vắng người. Đích thực là Chúa Giê-su đói và khát. Thánh Gioan kể tiếp: “Các môn đệ trở về … thưa với Người rằng Rabbi, xin mời Thầy dùng bữa.” (4, 31) Câu truyện thật hấp dẫn, nhiều độc giả ưa thích nó, lấy làm mẫu mực cho văn chương nhân loại. Chúng ta cũng không tránh khỏi sự thu hút của nó, và có cảm tưởng như được đặc ân tham gia vào tính cách riêng tư của hai nhân vật đàm thoại, coi như chuyện của linh hồn mình (mà thực đúng là như thế).

Đối với những ai có đức tin thì đây không phải cuộc trò chuyện giữa Chúa Giê-su với người phụ nữ Samaria mà thôi. Nhưng là của bất cứ linh hồn đói khát đời sống tâm linh nào. Chúng ta được chứng kiến một phụ nữ không tin đã thay đổi nếp sống một cách ngoạn mục để trở nên một tông đồ nhiệt thành rao giảng về Chúa Ki-tô. Điều xảy ra cho chị khi xưa cũng là điều chúng ta được hưởng bây giờ, nếu chúng ta thành tâm phục thiện như chị. Tai hại thay, thực tế không được như vậy, bởi những bức tường tâm lý kiên cố mà chúng ta dựng nên chung quanh mình. Nhưng xin suy nghĩ lại, giữa sức nóng khủng khiếp trưa hè của cuộc sống, chúng ta cần đến “nước giải khát” để có thể sống đức tin trung thành. Chúng ta cần đến Chúa Giê-su. Nhiều khi phải vật lộn với hoàn cảnh để giữ vững lý tưởng, giống như các lữ khách sa mạc trên con đường khô khan nóng cháy. Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta chẳng mấy được nâng đỡ về lòng đạo đức. Ngược lại bị “thập diện mai phục” bởi các cám dỗ xa lìa Thiên Chúa. Vậy thì tìm đâu được nước canh tân đức tin ? Chúng ta sẽ chạy đến với ai ? Các bài đọc hôm nay cho câu trả lời.

Trước hết, bài đọc Cựu ước trình thuật về cơn khát của dân tôc Israel. Họ khát và Thiên Chúa đã cho nước uống. Nếu câu chuyện đơn giản như thế thì chẳng có chi đáng nói. Đằng này, họ gây sự với Môsê và đe dọa ném đá ông: “Ông đưa chúng tôi ra khỏi Ai cập để làm gì ? Có phải để chúng tôi, con cái chúng tôi và súc vật của chúng tôi bị chết khát không ? ông Môsê kêu lên cùng Đức Chúa: “Con phải làm gì cho dân này bây giờ ? Chỉ một chút nữa là họ ném đá con.” Trong cơn khát, dân Do thái nổi loạn và trâng tráo đặt câu hỏi: “Có Đức Chúa ở giữa chúng ta hay không ?” trả lời bằng cách cho họ uống nước thỏa thuê từ một tảng đá giữa sa mạc. Tảng đá này chính là Đức Ki-tô của giao ước mới. Tuy nhiên, những người nổi loạn bị Thiên Chúa giáng phạt chết hết cả đám trong 40 năm lang thang ở hoang địa (Tv 95, 11).

Phần các tín hữu, thánh Phaolô nói cho hay Thiên Chúa giải khát chúng ta bằng cách thức khác, qua Bí tích Thánh tẩy. Ngài tuyên bố với giáo đoàn Rôma rằng họ được công chính hóa nhờ Đức tin. Nghĩa là được Thiên Chúa cho no thỏa cơn khát thiêng liêng do Đức tin Ngài ban cho. Chúng ta cần nước rửa tội để tẩy sạch lỗi lầm khỏi linh hồn mình, khỏi lạc xa Thiên Chúa và chia lìa tha nhân. Trên “hoang địa” của cuộc đời mình, chúng ta chẳng thể nào tự cung cấp thứ nước ấy. Phải tuyệt đối cậy nhờ vào bàn tay Thiên Chúa. Thực tế, Ngài đã ban cho mỗi người khi lãnh nhận phép Thanh tẩy. Trong bài đọc 2, thánh Phaolô công bố rõ như vậy khi nói về tình yêu Thiên Chúa dành cho các tội nhân: “Thế mà Đức Ki-tô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi. Đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta.” Cho nên, ơn Đức tin hoàn toàn là nhưng không do Đức Ki-tô mang lại cho mỗi tín hữu. Trong “sa mạc” cuộc đời, nhiều lúc chúng ta cũng tự hỏi: “Có Thiên Chúa không?” Thánh Phaolô trả lời “Có” bằng những chứng cớ rất cụ thể: “Trông cậy như thế, chúng ta sẽ không phải thất vọng, vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta.” Cái công thức ông dùng: “Công chính hóa nhờ Đức tin” nói lên một điểm hết sức cơ bản: Ngay từ khởi đầu cuộc sống tâm linh, khi chịu phép Thánh tẩy, ơn Đức tin là một quà tặng miễn phí Thiên Chúa ban cho mỗi người. Không ai có quyền đòi hỏi hay mua sắm được bởi công nghiệp riêng. Chúa Giê-su cũng nói rõ trong Tin mừng: “Nếu chị nhận ra ơn huệ Thiên Chúa ban.” Cho nên, chúng ta không thể nào sản xuất được nước giải khát trong “sa mạc” đời mình, cũng chẳng thể làm cho ân huệ Chúa xuất hiện trên mình. Vì tất cả đều đến từ Thiên Chúa. Chúng ta cần ơn Ngài để sống sót về tâm linh và mỗi ngày tiến dần đến tự do đích thực. Như vậy, cố gắng sống đạo đức thánh thiện trong mùa chay này để được Thiên Chúa xót thương là điều cần thiết.

Hằng ngày, chúng ta có nhiều cuộc trò chuyện. Có những câu chuyện không quan trọng. Chẳng hạn, nói chuyện để giết thời gian khi chờ đợi tàu xe, chuyện tầm phào trong quán xá, tửu lầu. Có những cuộc trò chuyện cần thiết như hỏi thăm đường xá, đi khám bệnh, mua bán, hàn huyên gia đình, đưa đón con cái học hành. Có những cuộc trò chuyện tối cần thiết như giáo huấn, bán tính làm ăn, sữa chữa lỗi lầm. Hôm nay, chúng ta có cuộc trò chuyện tối cần thiết giữa Chúa Giê-su và người phụ nữ xứ Samaria, liên quan đến phần rỗi của chị. Bởi vì, vai trò của chị và tầm quan trọng của Chúa Giê-su nên câu chuyện trở nên căn bản cần thiết. Nó là vấn đề sinh tử: Con người là gì ? Tôi đang làm chi ? Rồi sẽ đi về đâu ? Tôi cần phải thay đổi như thế nào để cuộc đời có ý nghĩa ? Ngoại cảnh có làm cho tôi hạnh phúc không ? Đại loại như vậy và là những vấn đề thiết yếu. Tuy không phải lúc nào chúng ta cũng đưa ra bàn luận. Nhưng thỉnh thoảng người ta vẫn đề cập đến. Bởi chúng gây nên nhiều lo âu. Nên ngừng lại những bận rộn thường ngày, ngồi bên những giếng mát, như chị phụ nữ hôm nay, để tư lự về ý nghĩa cuộc đời. Thánh Gioan có thói quen ghi rõ ngày tháng và nơi chốn các biến cố và cho nó một ý nghĩa biểu trưng. Giờ thứ 6 tức phỏng 12 giờ trưa, lúc mà thiên hạ ít đến giếng kín nước. Vì tự cảm thấy nếp sống không tốt đẹp của mình, người phụ nữ lợi dụng lúc vắng vẻ để ra giếng, tránh những con mắt khinh bỉ của hàng xóm láng giềng. Người Do thái coi giờ này như giờ hoàng đạo của âm lịch, tức giờ xấu. Quý vị hiểu ra ý nghĩa thánh Gioan muốn chuyển tải ! Ngược lại, giếng Gia-cóp danh tiếng về lịch sử, chiều sâu và sự ngọt ngào mát mẻ của nước, ý nói đến nội dung tôn giáo của sấm truyền cũ. Chúa Giê-su đến thay thế cho giếng nước và chuyện vãn với một linh hồn tội lỗi để ban cho chị mạch nước vọt lên sự sống đời đời.

Tuy nhiên, tôi không muốn quá đi sâu vào chiều kích tâm linh, rời xa hoàn cảnh cụ thể hằng ngày. Gần đây tôi phải chịu đựng một trong những chuyến bay gồ ghề nhất, đến mức phải tự hỏi tại sao lại dại dột đến vậy. Số là vì nhỡ chuyến bay đi thành phố Dallas, tôi phải thu xếp chuyến bay khác và gọi điện thoại nhắn tin người đón tôi ở phi trường. Tôi tìm mua một bữa ăn Trung hoa đông lạnh. Nhưng có lẽ, người Tàu chính hiệu cũng không thể nhận ra nó. Tôi ngồi nhấm nhí bữa ăn trong khi chờ đợi chuyến bay tiếp. Rồi mở lá thư cũ ra đọc. Ông bạn viết thư cho tôi cũng là một thương gia bận rộn. Ông đi làm ăn khắp đó đây. Lá thư là một bài báo cắt từ tuần san sức khỏe, nhan đề: “Làm thế nào điều khiển được căng thẳng trí óc ?” Đúng là chuyện hợp thời. Tôi thích thú đọc lại. Tác giả khuyên: Hãy tìm những chuyện làm cho tinh thần bạn bay bổng. Và đề nghị: âm nhạc, đọc sách, giã ngoại sinh thái, suy ngẫm và cầu nguyện. Tuy không phải là tờ báo tôn giáo, nhưng tác giả thêm: “Hãy thường xuyên dành thời gian cho các hoạt động tinh thần.” Dưới ánh sáng Tin mừng hôm nay, tôi xin phép mở rộng: Và tìm thời gian cho các cuộc chuyện trò ý nghĩa nữa.

Câu chuyện Phúc âm là về một tâm hồn đang bị căng thẳng. Cô ra giếng một mình vào giờ vắng vẻ có thể cô cảm thấy tủi phận vì sống ngoải lề. Cô cần được cứu giúp và Đức Ki-tô đã nhận ra nỗi thống khổ của cô. Cô khao khát thứ nước làm cho linh hồn mình yên ổn. Cái giếng cô kín nước không có khả năng ấy. Cho nên cô dừng lại suy nghĩ, đợi chờ một sự giải thoát khác, một cuộc trò chuyện đầy ý nghĩa như tuần san sức khỏe trên đề nghị. Ngõ hầu tinh thần cô bay bổng khỏi tình trạng nặng nề hiện tại. Chúng ta được phép tham dự vào câu chuyện riêng của cô đúng theo bản chất của nó. Và ngay cả trước khi cô chạy về thành phố loan báo cho dân chúng biết câu chuyện của mình, thì chúng ta đã khám phá ra Đức Ki-tô là ai. Kỳ thực chính cô đã giúp đỡ chúng ta tìm hiểu về Ngài. Liệu chúng ta có đủ cam đảm thú nhận cơn khát của mình giống như của cô ? Liệu chúng ta dám dấn thân vào câu chuyện “ý nghĩa” với Chúa Giê-su ? Liệu chúng ta dám bộc bạch tâm tư với Ngài, để được lột xác như cô ? Vần đề đòi hỏi câu trả lời thành thực. Người phụ nữ Samaria nêu gương cho các tín hữu phải đối diện với Thiên Chúa ra sao ? Cô chỉ dẫn chúng ta lắng nghe Chúa dạy bảo, nhất là trong những dịp hội họp như Thánh lễ hôm nay. Cũng như cô, chúng ta phải sẵn sàng thay đổi. Cố chấp chẳng được lợi ích chi và đi tham dự Thánh lễ như vậy chỉ tốn thời gian vô ích.

Người phụ nữ bên giếng nước sẵn lòng đổi thay nếp sống của mình bằng cách đặt câu hỏi, lắng nghe và trả lời Chúa Giê-su ngay thật, để có cơ hội điều chỉnh lại hạnh kiểm của mình. Trong xóm làng, cô bị mang tiếng xấu vì có tới năm đời chồng. Có thể do lỗi của cô, nhưng cũng có thể cô gặp toàn bất hạnh vì các người đàn ông không trung thành, kiểu ăn bánh trả tiền, nhanh chóng phụ bạc cô. Chúng ta không có quyền xét đoán. Tuy nhiên, sự kiện không làm cho Chúa Giê-su từ chối trao đổi với cô. Đúng là do lòng thương xót của Chúa. Ngài sẵn sàng hiện diện trước mặt cô để ban ơn thay đổi. Chúng ta có thể mường tượng người phụ nữ này là lời an ủi khích lệ cho toàn nhân loại. Bởi tất cả đều là tội nhân, đều rụt rè trước tôn nhan oai nghiêm Thiên Chúa để thú nhận tội lỗi mình. Chúng ta không dám mở lòng mình ra và chuyện vãn với Chúa Ki-tô về tình trạng linh hồn. Gương can đảm của người phụ nữ thúc đẩy chúng ta mạnh dạn tiến đến cùng Chúa. Cô kích thích Đức tin của chúng ta đến hành động. Cho nên, Mùa chay này câu chuyện của cô sửa soạn chúng ta thành thực tuyên hứa lại lời thề Bí tích rửa tội trong đêm vọng Phục sinh tới. Chúng ta thâm tín rằng nước thanh tẩy sẽ rửa chúng ta khỏi mọi tội khiên, ban ơn tha thứ và giải phóng tín hữu khỏi các hình thức nô lệ. Chúng ta sẽ cùng nhau tụ họp bên giếng nước trong lành lắng nghe và trả lời những điều Thiên Chúa muốn dạy bảo mình.

Riêng trong buổi phụng vụ này, Thánh thể chính là giếng nước chúng ta cần phải uống. Giếng nước ban sự sống đời đời. Chúng ta có cơ hội tốt để lặp lại câu chuyện người phụ nữ Samaria. Chúng ta hồi tâm đàm đạo với Chúa Giê-su về câu chuyện ý nghĩa đời mình. Chúng ta đang ở giai đoạn nào của cuộc sống ? Dự tính đi về đâu ? Chúa Thánh thể sẽ ban hành lý thế nào để tiếp tục tiến bước ? Chúng ta cần mạch nước trong lành nào hiện giờ ? Gợi lại bài báo tôi đọc ở phi trường, chúng ta cùng với cộng đoàn giáo xứ lắng nghe rõ Lời Chúa trong các bài đọc, lãnh nhận sốt sắng đời sống của Ngài trong Bí tích Thánh thể. Đó là cơ hội tốt nhất để làm cho tinh thần mình “bay bổng”. Amen.


Xin Ban Cho Con Nước Hằng Sống

Ga 4:5-42

Fr. Jude Siciliano, OP.

Thưa qúi vị

Từ “di dân” (immigrant) ngày nay quen thuộc với hết mọi người, mọi quốc gia. Nhưng cách đây không lâu thị còn là ngôn ngữ lạ tại vì những người mới đến thường được ta gọi bằng từ khác: dân ngoại cư (alien). Phong trào di dân bây giờ cũng là chuyện thường tình. Lý do thì vô số: kinh tế, chính trị, tôn giáo, sắc tộc…

Ông tổ tôi là người miền nam nước Ý đại lợi. Tên họ chúng tôi chứng minh điều ấy. Cư dân nước Mỹ bây giờ đều như thế cả: Anh, Pháp, Đức, Ai nhĩ lan, Phi châu, Á châu. Ngay cả dân da đỏ, tự nhận mình là dân bản địa (native). Nhưng thực ra thì cũng từ nơi khác đến. Có thể là 20, 30 ngàn năm về trước . Chẳng cần khảo cổ, cứ tra cứu tên gốc của họ, tự khắc biết. Thời còn trẻ, dưới con mắt của tôi, ông bà cha mẹ tôi là những old folks (dân kỳ cựu) họ bỏ quê hương tìm đến “đất hứa”. Họ đã chịu đựng nhiều thiệt thòi, gian khổ, rét mướt, khinh dễ, thành kiến, ghét ghen, kỳ thị… và họ cam chịu để con cháu được hưởng phúc lộc hôm nay. Ông bà tôi kể, lúc mới đến người ta ghê tởm họ vì lầm tưởng họ là những kẻ ăn giun (trùng). Thực ra họ ăn spaghetti một đặc sản của nước Ý, nổi tiếng bây giờ, nhưng lúc ấy còn rất nghèo, nên spaghetti có màu xám. Ngoài ra họ thường bị hiểu lầm về nhiều chuyện khác do ngôn ngữ bất đồng. Về phần ông bà tôi thì cũng nhớ quê hương da diết bởi phải gánh chịu những nặng nhọc, khó khăn mới.

Vậy thì chúng ta hiểu tâm lý của dân tộc Israel trong bài đọc 1 hôm nay trích từ sách Xuất hành:”Trong sa mạc, dân chúng khát nước đã kêu trách ông Môsê rằng: ông đưa chúng tôi khỏi Ai cập để làm gì ? Có phải để chúng tôi, con cái chúng tôi và súc vật của chúng tôi bị chết khát hay sao ?” Tuyển dân cũng đang trên đường di cư. Họ rời bỏ kiếp nô lệ ở Ai Cập, nơi mà tổ tiên họ đã cư ngụ 400 năm, để về đất hứa. 400 năm là thời gian dài, họ đã cắm rễ sâu vào mảnh đất ấy, quen thuộc với phong tục, tập quán, nếp sống củ hành củ tỏi Ai Cập. Lúc này phải bỏ lại tất cả để ra đi, thì thật là khó, rồi phải đương đầu với những gian nan nhọc nhằn mới ở đất lạ quê người, chiến đấu với thiên nhiên, thú dữ, thổ dân. Cho nên tâm lý bất an, chao đảo là điều không thể tránh được. Như xuất hành thuật lại: Tác giả dùng hai từ cụ thể làm bằng cớ: Massah: thử thách và Meriba: chịu đựng. Cuộc hành trình thật dài, thật gian khổ, thất bại và thất vọng triền miên. Sách kể tiếp: Họ nghi ngờ kêu lên: Có Đức chúa ỏ giữa chúng ta hay không ?

Chúng ta có thể đồng hóa với tuyển dân trong mùa chay này, khi mà hằng ngày cũng gặp những giây phút tương tự, hoàn cảnh tương tự, trên con đường thiêng liêng, với bao cám dỗ của đồng đạo, đồng bào và thế giới chung quanh. Chúng ta than: Ích chi những khổ chế trong khi thiên hạ ngày ngày yến tiệc linh đình, ích chi khó nghèo, khiêm nhường, vâng phục; trong khi nhung lụa ê hề, kiêu căng tự khẳng định khắp hang cùng ngõ hẻm: Ti vi, báo chí, xã hội, kinh tế, chính trị, giáo hội, nhà tu ? Liệu tôi chịu đựng được bao lâu ? Liệu Chúa còn ở với tôi không ? Kết thúc rồi thế nào ? Điều chi ở phía trước ? Từ chối mình để làm chi ? Tốt nhất là người ta sao mình vậy ? Thử xem ai đã hơn ai ? Trăm nghìn cám dỗ ở chân núi Horeb như tuyển dân vậy.

Hiểu thế để chúng ta thấy rằng muốn trung thành với ơn gọi chúng ta phải khao khát Chúa. Chúng ta cần đến Ngài từng giây từng phút. Chúng ta phải thay đổi não trạng thế tục để có thể tiếp tục đi tiếp con đường đã “trót chọn” theo tiếng Chúa gọi. Chúng ta luôn cảm nghiệm sa mạc trong cõi lòng mình, cho nên luôn cần nước trong lành của Ngài để giải khát, chứ đừng thắc mắc: Tôi vào nhà dòng để làm gì ? Để rồi cố gắng thu tích sung sướng cho riêng mình.

Bởi lẽ, cứ như câu truyện hôm nay Chúa sai Môsê đập đá tảng cho chúng ta có nước uống. Chính từ những gian khổ hàng ngày, những vật lộn với các cám dỗ mà ơn thánh sẽ vọt ra làm đỡ cơn khát cho các môn đệ trung thành. Điều này không phải là khuyên nhủ ăn bánh vẽ. Cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và người phụ nữ Samaritana ở giếng Giacóp là bằng chứng chân lý. Câu truyện dài và quá quen thuộc. Nhưng hoàn cảnh hơi khác thường. Cứ theo thói tục. Thì phân biệt giới tính thời Chúa Giêsu rất nặng nể trong các xã hội Palestine. Đàn bà, con gái, trẻ em lúc ấy chẳng có chút địa vị và nhân phẩm nào. Họ thuộc “sở hữu” của đàn ông. Luật lệ do đàn ông ban hành. Phụ nữ chỉ có bổn phận vâng theo mù quáng và tuyệt đối. Chỗ của họ là ở nhà, bếp núc, con cái. Chỗ của đàn ông là đồng ruộng, nơi công cộng, chợ búa và cổng làng. Giếng nước là chung nhưng khác thời gian: Buổi sáng và chiều, đàn bà con gái. Đàn ông, các lúc còn lại. Nhưng người phụ nữ hôm nay ở giữa trưa vắng vẻ. Các chú giải bảo rằng vì chị ta nổi tiếng xấu, nên tránh đàm tiếu của dân làng. Không hiểu thực hư thế nào. Nhưng rõ ràng câu chuyện chỉ xẩy ra giữa hai người: Một, đàn ông Do thái, kẻ thù của dân tộc Samaritanô. Hai, phụ nữ trắc nết, thuộc cư dân rối đạo.

Chắc quí vị đoán ra ngụ ý của Gioan: Ông muốn đưa vào Tin mừng một cuộc cách mạng: xã hội, tôn giáo và chủng tộc. Một con đường tinh thần hoàn toàn mới: Xóa bỏ mọi ranh giới ngăn cách. Khơi dây trong lòng người ta nội lực vô tận. Xin đọc kỹ Phúc âm. Tác giả John P. Pilch đếm được 7 lần Đức Giêsu cất tiếng nói và 7 lần người phụ nữ ngỏ lời. Đó là điều mới lạ trong cộng đồng Gioan, nơi chỉ có đàn ông được phép nói. Người ta miệt thị phụ nữ, coi họ như nô lệ. Ngày nay cũng vẫn vậy, mặc dù lý thuyết có đổi khác.

Chính các tông đồ đi chợ về chứng kiến quang cảnh cũng lấy làm gương mù. Rồi thì chị ta lại dám đi vào thành loan tin cuộc trò truyện của mình với một đàn ông lạ mặt. Đúng là Đức Kitô đang thực hiện một cuộc “tạo dựng” mới. Tạo dựng bình đẳng giữa người và người tại một nơi rất tầm thường “giếng nước”. Nhưng ý nghĩa thật là sâu sắc. Giống như Thiên Chúa ngày thứ nhất dựng nên ánh sáng. Đức Giêsu cũng kéo người phụ nữ ra khỏi tối tăm của tâm hồn, khỏi nếp sống sa đọa của chị, ban cho chị dần dần ý thức được tình trạng nô lệ của mình và căn cước của người nóí chuyện với chị. Thoạt đầu, chị gọi Ngài là dân Do thái, sau đó tiến lên Đấng tiên tri, rồi Đấng thiên sai, cuối cùng Cứu Chúa của thế gian. Thì ra chị đã hiểu Đức Giêsu hơn ai hết trong giai đoạn này.

Phần Đức Kitô lại còn sâu sắc hơn. Ngài tế nhị xin nước của chị, rồi dần dần dẫn chị đến lòng khao khát “nước” Ngài ban cho chị, nước ấy vọt ra từ tâm hồn chị vươn đến sự sống muôn đời. Đó là nội lực của mỗi linh hồn. Ngôn ngữ võ nghệ gọi là thế công. Chúng ta nên suy nghĩ sâu xa hơn về biến cố này và áp dụng cho linh hồn mình. Kẻo cứ vô tâm chạy theo thế gian maõi.

Riêng đối với những ai làm việc truyền giáo, cũng nên học nơi bài đọc 3 hôm nay nghệ thuật thu hút linh hồn người ta. Không bằng tiền tài, danh vọng hoặc cưỡng chế thuyết phục, học thức hào nhoáng. Nhưng bằng kỹ thuật của Đức Kitô. Kỹ thuật đó cũng là “nội lực” của linh hồn Ngài, rồi tiếp đến xin người ta cho nước ưống, tức tài năng trí tuệ hiện trạng mà họ đang có, rồi dẫn đến sự thiếu thốn trong con người họ. Từ đấy nảy sinh lòng khao khát sự thật . Đức Kitô không dùng áp lực để tiến vào tâm hồn chị phụ nữ. Nếu như Ngài làm như vậy chị sẽ lập tức đóng cửa linh hồn chị lại, chứ không mở toang ra cho Ngài. Đây là sự khác biệt to lớn giữa những người tự nhận là thông thái, là độc quyền chân lý và Đức Giêsu, nhà truyền giáo thật sự và vĩ đại. Ngài khơi đầu câu chuyện bằng cách bày tỏ “nhu cầu” của mình: Ngài đang khát khao linh hồn người đối diện. Chị liền mở lòng ra ban tặng “nước” cho Ngài. Câu truyện tiến hành hết sức tự nhiên. Người đàn bà từ từ nhận ra “nhu cầu” của mình và tình nguyện xin “nước hằng sống”. Xin tình yêu của Thiên Chúa. Nhưng lạ lùng thay Chúa bảo chị “nước” đó đang nằm sẵn trong trái tim chị. Chị chỉ cần khơi dậy và được uống thỏa thuê.

Than ôi, xưa nay chúng ta kiêu căng và ngu tối biết bao! Cho nên chẳng lạ gì thế giới vẫn đi trong đêm tối âm u. Bao nhiêu lần chúng ta rao giảng về Chúa, khoe mình là thông thạo về Ngài. Nhưng kỳ thực chưa bao giờ được gặp Ngài. Vì nếu gặp thì đã nên giống chị đàn bà Samaritana hôm nay. Vội vàng chạy vào thành báo tin và cả thành ùa ra đón Chúa và mời Chúa ở lại với chúng ta. Phúc âm kể rằng Ngài đã ở lại đó hai ngày. Sau cùng họ nói với chị: không phải vì lời chị mà chúng tôi tin. Chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người là Đấng cứu độ trần gian.

Chúng ta dâng cho Chúa phần nhỏ nhất mình có, phần còn lại dành cho vinh quang mình. Ăn chay, đánh tội, khổ chế cũng vậy thôi, chứ chưa nói đến việc dung dưỡng xác thịt. Chúng ta quên rằng hy sinh cho Chúa, sẽ nhận lại gấp trăm. Ở Cana Chúa xin mấy người phục vụ đổ nước lã đầy các chum và kết quả là 6,7 trăm lít rượu ngon. Trên núi em bé cho Ngài năm cái bánh lúa mạch và hai con cá nhỏ , vậy mà hàng vạn người ăn no nê. Hôm nay chị đàn bà cho Ngài uống chút nước và chị được nguồn suối tình yêu vọt lên đến sự sống muôn đời. Chúng ta nghĩ sao về mùa chay này, hy sinh cho Chúa hay tiếp tục gấm vóc lụa là, ngày ngày yến tiệc linh đình. Cái đó tùy lòng đạo đức mỗi người. Amen.



Vị Cứu Tinh Nhân Hậu

Ga 4:5-42

G. Nguyễn Cao Luật, OP

Ðến với miền đất bị xa lánh

Sau những công việc tại Giêrusalem -xua đuổi những người buôn bán ra khỏi đền thờ, đàm đạo với Nicôđêmô về cuộc sống mới-, Ðức Giêsu lên đường trở lại miền Galilê.

Trong cuộc hành trình này, Ðức Giêsu đã không theo con đường người Do-thái vẫn đi là tránh băng qua miền Samari. Từ thời đế quốc Át-xy-ri, người Do-thái và người Samari vẫn kình địch nhau, không giao du với nhau, mmỗi miền có đền thờ riêng. Ðức Giêsu biết điều đó và việc Người có mặt tại miền Samari không phải là chuyện tình cờ. Người có sứ mạng đến với mọi dân, mọi nước để đưa họ về với Thiên Chúa. Người là Ðền Thờ mới, và Ðền Thờ này được dành cho tất cả mọi người. Người là Ðấng quy tụ nhân loại, nên chính Người sẽ phá vỡ những rào cản đang phân rẽ nhân loại. Tình yêu cao cả đã buộc Ðức Giêsu phải có mặt tại Samari, miền đất thù nghịch với người Do-thái.

Ðức Giêsu đã đến Samari như một người thừa sai, một người luôn có những ý nghĩ tốt đẹp về người khác. Như vậy, không một miền đất nào bị bỏ quên ; không một người nào lại không được Người nhớ đến, dù kẻ đó có thế nào chăng nữa.

Ðể hiểu rõ điều này, có thể so sánh thái độ của Ðức Giêsu với thái độ của các môn đệ. Một làng thuộc Samari từ khước tiếp nhận Ðức Giêsu vì Người đang hành hương lên Giêrusalem. Thấy thế, Gia-cô-bê và Gio-an đã bày tỏ phản ứng của "con sấm sét": "Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu huỷ chúng nó không ?" (Lc 9,54). Ðức Giêsu lập tức quay lại và khiển trách các ông. Người đã tránh sang một làng lân cận. Người muốn đánh dấu lần Người đi qua cõi thế này bằng những hành vi nhân hậu, chứ không phải bằng những lần nỗ bùng lòng báo thù, và Người tìm cách ghi khắc cách xử sự này vào lòng các môn đệ.

Quả thế, Ðức Giêsu đã đến trần gian để tạo nên một sự gắn bó, để kéo nhân loại và vũ trụ đến với Người. Ðức Giêsu đi bước trước, nhưng Người không xuất hiện với những nét của một kẻ chinh phục đến thiết lập sự thống trị của mình, hoặc của một kẻ tuyên truyền rêu rao để áp đặt những ý tưởng của mình. Ðiều Ðức Giêsu trao ban trước tiên, đó là trái tim và Người muốn nhận lại trái tim của người khác. Người đến với tư cách là một người bạn, một Ðấng Cứu Thế, chứ không phải với tư cách quan toà đến xử án (xem Ga 3,17; 12,47).

Những tiến trình gặp gỡ

Cuộc nói chuyện dài giữa Ðức Giêsu và người phụ nữ Samari là những cấp độ tiến triển về mặc khải, về thiêng liêng mà điểm kết thúc là người phụ nữ nhận ra Ðức Giêsu là Ðấng Cứu Tinh.

Phản ứng đầu tiên của người phụ nữ khi nhìn thấy Ðức Giêsu bên bờ giếng, nghe Người xin nước uống, là câu nói về dòng giống. Nhưng câu trả lời của Ðức Giêsu cho chị hiểu rằng, ngay vào lúc này, Người là Ðấng ban ơn chứ không phải là người nhận ơn. Chính chị mới là kẻ cần đến sự giúp đỡ của Người (x. Ga 4,10-11).

Khởi đầu, người phụ nữ chỉ coi Ðức Giêsu như một người bộ hành mệt nhọc, đang cần nước uống, chứ không thấy được con người sâu xa của Người: chị thấy Ðức Giêsu là người Do-thái, không biết Người là Con Thiên Chúa ; chị thấy một con người mỏi mệt chứ không phải là người nâng đỡ những tâm hổn yếu nhược ; chị nhìn thấy con người đang cần nước chứ không biết rằng chỉ mình Người có khả năng làm dịu cơn khát của trần gian.

Sau khi nghe câu trả lời của Ðức Giêsu, tuy chưa hiểu rõ hơn về Người, nhưng chị cũng tỏ lòng kính trọng. Chị đỗi cách xưng hô: "Thưa Ngài". Tâm trí chị chưa vượt qua khỏi những quan niệm bình thường, chị vẫn nghĩ đến thứ nước uống tự nhiên, và mong muốn người đang đối thoại với chị cho chị thứ nước ấy, để chị khỏi phải đi múc.

Ðến đây, Ðức Giêsu đề cập đến điều bí ẩn nhất của tâm hổn chị. Người gợi lại đời sống của chị, không phải với cái nhìn từ trên cao hay với ánh mắt coi rẻ như một số người đàng hoàng trong đám dân Samari vẫn dành cho chị, nhưng là với tấm lòng muốn hoà giải chị với người chổng và giúp chị tiếp tục lại cuộc sống chung với chổng. Chỉ khi ấy chị mới có thể lãnh nhận nước trường sinh, và thay vì phải nô lệ một tình yêu bị cấm đoán, chị dấn thân vào tình yêu cao cả, và nhận được vẻ kiều diễm Ðức Giêsu muốn ban cho chị. Cần phải thay đỗi nếp sống, phải dẹp bỏ mọi trở ngại, phải chân thành mới có thể đón nhận ơn cứu độ.

Một lần nữa, người phụ nữ lại đỗi cách xưng hô với Ðức Giêsu ; chị coi Người là ngôn sứ. Ðổng thời, chị đỗi sang đề tài tôn giáo. Và với vấn đề này, Ðức Giêsu cũng đưa chị đến nguổn mạch sâu xa, đến vương quốc sự thật rất rộng lớn. Ðể đáp lại câu nói của người phụ nữ về Ðức Mê-si-a, Ðức Giêsu đã xác nhận: "Ðấng ấy chính là Ta, người đang nói với chị đây." (Ga 4,26).

Từ nay, trung tâm của việc tế tự không phải là Giêrusalem, cũng không phải là núi Ga-ri-zim, nhưng chính là Ðức Kitô.

Và giai đoạn cuối cùng đã đến. Người phụ nữ nói với người khác về Ðức Giêsu, chị nhận Người là Ðức Kitô. Chị không hề kể cho những người đổng hương về vấn đề thờ phượng Thiên Chúa, nhưng chị nói rõ những điều Người đã nói về đời sống của chị, cả những tội lmỗi còn giấu kín. Chị nói lên điều mà người ta nghĩ rằng chị nên giấu đi. Người phụ nữ Samari thực là một trong những người truyền giáo đầu tiên của Kitô giáo. Nhiều người đã tin lời chị.

Người phụ nữ đến giếng để múc nước, nhưng khi tìm được Nguổn mạch đích thực, chị đã bỏ lại vò nước, như các môn đệ đã từng bỏ lại lưới và thuyền.

Từ một người xa lạ, chị đã trở thành môn đệ của Ðức Kitô. Từ nhận xét ban đầu: người ngổi bên bờ giếng là người Do-thái, chị đã nhận ra người ấy là Ðức Kitô,
là Ðấng Cứu Tinh.

Một kinh nghiệm cho mọi người

Người phụ nữ Samari đã nhận ra Ðức Giêsu. Ở đây không phải là một phép lạ có tính cách hữu hình ; không là việc chữa lành bệnh, không là việc làm cho sáng mắt. Ðiều kì diệu đã xảy ra nơi tâm hổn tội lmỗi của người phụ nữ. Qua việc giải thoát tâm hổn khỏi tội lmỗi, Ðức Giêsu đã nhận được tước hiệu vinh quang, mặc dù Người chưa chịu treo trên thập giá.

Tước hiệu vinh quang: "Vị Cứu Tinh của trần gian"không phải chỉ là cảm nghiệm riêng của người phụ nữ, nhưng còn là của cả một đám đông dân chúng. Họ đã nghe câu chuyện người phụ nữ thuật lại và họ đã đến gặp Ðức Giêsu, đã nghe lời Người giảng dạy và đã tin.

Như vậy, cây thập giá vẫn hiện diện trong suốt cuộc đời Ðức Giêsu, và đã đem lại hậu quả trước khi Người bị treo lên.

Và Ðức Giêsu đã quên hẳn cơn khát, quên cả sự mệt nhọc. Người đã bắt đầu chu toàn sứ mệnh của Người khi hướng dẫn người phụ nữ tội lmỗi đến đức tin, thay đỗi lối sống: đưa về cho Chúa Cha những người biết thờ phượng theo thần khí và sự thật. Hình ảnh đám đông người Samari đến gặp Ðức Giêsu lại không phải là hình ảnh báo trước rằng Tin Mừng sẽ được loan báo đến tận cùng cõi đất ?

Ðức Giêsu đã có mặt tại Samari với tư cách của một Vị Cứu Tinh đầy nhân hậu. Người đã đến để cứu vớt, để xoá bỏ những hận thù, để mặc khải những điều sâu xa. Tại đó, Người đã kiên nhẫn thuyết phục người phụ nữ phóng túng về hạnh kiểm. Trong câu chuyện này, lòng nhân hậu của Người thật là một an ủi, một nguổn mạch dịu mát tất cả những ai đang mang trong lòng những phiền muộn, những thất bại và cay đắng.

Hãy đến gặp Ðức Giêsu

hãy thưa chuyện với Người

để thấy rằng mình được yêu thương.

Người đang chờ ...

Hãy nghe lời Người nói:

Nếu anh, nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban ...



Gặp Gỡ Đức Kitô

Ga 4:5-42

Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP

“Gặp gỡ Đức Kitô biến đổi cuộc đời mình.

Gặp gỡ Đức Kitô đón nhận ơn tái sinh.

Gặp gỡ Đức Kitô chân thành mình gặp mình.

Gặp gỡ Đức Kitô nảy sinh tình đệ huynh”.

Có lẽ tất cả chúng ta đều thuộc những lời ca trên đây của bài hát “Gặp gỡ Đức Kitô”. Những lời ca này có thể áp dụng rất thích hợp vào bài Tin Mừng hôm nay: Người phụ nữ Samari gặp gỡ Đức Kitô. Cuộc gặp gỡ này đã làm chuyển biến cuộc đời của chị. Chuyển biến như thế nào ?

Hôm ấy, Chúa Giêsu và các môn đệ đi bộ từ miền Giu-đê trở về miền Ga-li-lê, có lẽ đã qua mấy ngày đường dưới nắng hè gay gắt. Trên đường đi, Chúa và các môn đệ đi qua thị trấn Xy-kha, thuộc lãnh thổ Samari, ở đó cố một cái giếng mà tổ phụ Giacóp đã đào dưới chân núi Ga-ri-dim. Giếng này sâu khoảng 39 m nên muốn uống nước, phải có gầu và dây dài thì mới kín múc được.

Khi tới đây, các môn đệ rẽ vào chợ để mua thức ăn trưa, còn Chúa Giêsu tới ngồi nghỉ chân bên bờ giếng. Cùng lúc ấy có một phụ nữ đội vò tới kín nước. Như vậy, người phụ nữ Samari này đi kín nước thì tình cờ gặp Chúa, chứ chị không hay biết gì và cũng không có ý định gặp Chúa. Chúa đang ngồi nghỉ chân bên bờ giếng, chị tới kín nước thì gặp Chúa, và Chúa đã gợi chuyện với chị bằng việc xin nước. Nhưng không phải Chúa khát mà xin nước uống, Chúa muốn dùng việc xin nước để nói về một vấn đề quan trọng hơn, có thể nói Chúa giả vờ xin nước để gợi chuyện. Ngài muốn nói cho chị biết: chính chị là người đang khát, và Chúa cũng muốn nói cho chị biết Ngài là ai, là người sẽ làm cho chị hết khát: “Ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa” tức là gặp được Chúa là có tất cả, không còn khát mong gì khác nữa.

Chúa nói vậy, người phụ nữ không hiểu gì hết, nên Chúa đi thêm bước nữa, Ngài nói với chị về cuộc đời riêng tư của chị, khi đó chị nhận ra Ngài là một tiên tri, một ngôn sứ. Chúng ta thấy Chúa Giêsu không kết án, cũng không trách chị đã có đến năm đời chồng rưỡi. Đó không phải là điều Chúa muốn nói, điều Chúa muốn là chị nhận ra Ngài là ai, và Chúa đã thành công. Từ không biết đến nghi ngờ, từ nghi ngờ đến nhận biết. Chị nghi ngờ người đang nói với chị không phải là bất cứ ai, và chị đã nhận ra khuôn mặt mới: không phải chỉ là một ngôn sứ mà là Đấng Mê-si-a, Đấng Thiên Sai mọi người đang mong đợi.

Như vậy, người phụ nữ Samari gặp gỡ Đức Kitô, cuộc gặp gỡ đã biến đổi cuộc đời chị. Chị đã nhận được ơn tái sinh, tức là ơn đổi mới cuộc đời. Và chị cũng gặp được chính mình. Tin Mừng không cho chúng ta biết chị đã có quyết định thế nào, đã tổ chức lại cuộc sống của chị ra sao. Nhưng chúng ta có quyền tưởng tượng rằng: khi về nhà, chị không còn có thể sống như trước khi xảy ra cuộc kỳ ngộ này, chị không thể tiếp tục sống như trước mà cần phải đổi thay: chị sẽ sống đàng hoàng hơn, ít ích kỷ hơn, có thể yêu thương sâu xa hơn vì tim chị đã đổi thay. Thực vậy, muốn cho con tim biến đổi, cải hóa, thì phải đi vào tận chiều sâu của tâm hồn, phải đối diện, phải giáp mặt, phải chạm trán với chính cõi lòng mình, đúng như bài ca chúng ta hát: “Gặp gỡ Đức Kitô, chân thành mình gặp mình”.

Đàng khác, cuộc gặp gỡ của chị Samari với Đức Kitô cũng nảy sinh tình đệ huynh: hai dân tộc Do Thái và Samari có một mối thù truyền kiếp. Mặc dầu xưa kia họ cùng một dòng tộc Giacóp, nhưng họ đã chia rẽ nhau từ năm 935 trước công nguyên, khi vua Sa-lô-môn băng hà. Người miền bắc là Samari xây đền thờ riêng tại núi Ga-ri-dim, còn miền nam là Giu-đa, vẫn chọn Giêrusalem làm chính. hai bên kình địch nhau, cuộc bất hòa kéo dài đã hơn 400 năm, nhưng họ vẫn hoặc công khai, hoặc ngấm ngầm thù ghét nhau và tìm cách hại nhau. Cho nên lúc đầu chúng ta thấy người phụ nữ Samari ngạc nhiên, khi thấy Chúa Giêsu là một người Do Thái, lại nói chuyện với chị ta. Nhưng đối với Chúa Giêsu, Ngài biết tất cả, Ngài vượt trên tất cả, với lòng nhẫn nại và một chút khéo léo về tâm lý, Chúa đã chinh phục được lòng người và Ngài đã thực hiện việc hòa giải và hòa hợp trong dân tộc Ngài. Người phụ nữ đã hòa giải được sự rạn nứt, giằng co trong chính tâm hồn chị, hòa giải với Thiên Chúa, và hòa giải với đồng bào, hòa giải giữa hai dân tộc Do Thái và Samari.

Nói đến kinh nghiệm gặp gỡ Đức Kitô, chúng ta hãy nhớ đến ông Gia-kêu lùn trong Tin Mừng, chính ông đã thú nhận: “Kinh nghiệm gặp gỡ Đức Kitô của tôi rất độc đáo, phải thú thực rằng: tôi là một người thu thuế không mấy liêm chính, thế nhưng từ lúc gặp Đức Kitô, cuộc đời tôi đã thay đổi hẳn”. Như vậy, chúng ta có thêm bằng chứng về kinh nghiệm gặp gỡ Đức Kitô. Và đây cũng là bài học nhắc nhở chúng ta.

Thực vậy, chị Samari gặp Đức Kitô, ông Gia-kêu gặp Đức Kitô, cuộc gặp gỡ này đã làm chuyển biến, đã làm đổi thay cuộc đời của hai người ấy. Đúng vậy, Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi những ai khát vọng tìm Ngài, tình thương của Ngài cao vượt trên muôn ngàn tội lỗi hư hèn của con người.

Như người phụ nữ Samari, như ông Gia-kêu, chúng ta cũng cảm nhận được sự yếu đuối tội lỗi của chúng ta, nếu chúng ta đến với Chúa bằng lòng ăn năn sám hối, chúng ta sẽ gặp Ngài, chúng ta sẽ nhận được tình yêu thương khoan dung của Ngài. Tóm lại, nếu chúng ta muốn thay đổi hay đổi mới cuộc đời mình, chúng ta hãy đến với Chúa Giêsu, hãy gặp gỡ Ngài, bởi vì chỉ có Ngài mới làm cho cuộc đời chúng ta đáng sống, sống vui, sống mạnh, và sống có ý nghĩa.


Chính chúng ta đã nghe và tin lời Chúa

(Ga 4, 5-42)

Jos. Nguyễn Văn Thuần, OP

Cùng với Giáo Hội, hôm nay chúng ta tiến vào Chúa Nhật III Mùa Chay. Mùa Chay là mùa hồng ân Chúa ban cho mỗi người chúng ta có thời gian thuận tiện để tĩnh tâm, suy nghĩ và hoán cải... nhằm xây dựng đời sống thiêng liêng ngày một thăng tiến hơn. Qua đó, chúng ta có thể phát triển đến độ viên mãn hồng ân trọng đại mà chúng ta đã lãnh nhận trong ngày lãnh nhận bí tích Rửa tội, để trở nên những phần tử sống động hơn của Giáo hội và ngày càng trở nên những người con đích thực của Thiên Chúa. Hôm nay chính chúng ta đã nghe và tin lời Chúa. Hơn thế nữa, chúng ta thực sự đã gặp được Đức Giêsu Kitô, Đấng luôn ban cho chúng ta nước hằng sống là Mình và Máu Thánh Ngài. Chúng ta hãy noi gương Ngài để chia sẻ những gì chúng ta đã lãnh nhận từ Thánh Thể mà trao ban cho tha nhân.

Trên con đường dẫn dân Ít-ra-en về đất hứa, Giavê Thiên Chúa đã dùng sa mạc làm trường học để huấn luyện, thanh tẩy và để hội tụ niềm tin của họ vào một mình Thiên Chúa duy nhất. Và ở giữa sa mạc, thỉnh thoảng người lữ hành có thể tìm một vùng cây cối xanh tươi, dịu mát để múc lấy sức sống từ mạch nước quí giá là Đức Giêsu Kitô. Theo một ý nghĩa nào đó, tiến vào bốn mươi ngày của Mùa Chay là chúng ta đang nối gót dân Ít-ra-en xưa kia trong cuộc hành trình xuyên qua sa mạc trần gian để tiến vào Đất hứa. Hơn nữa, chúng ta dõi theo bước chân của Đức Giêsu Kitô đi vào hoang địa để ăn chay và cầu nguyện. Qua đó, đào sâu thêm ý nghĩa của cuộc sống và nhận định lại bậc thang giá trị của đời sống chứng nhân.

 Bài Tin Mừng hôm nay dẫn chúng ta đến bên giếng nước trong lành để mời gọi chúng ta dõi theo bước chân của người phụ nữ Sa-ma-ri bên bờ giếng. Bà đến để xách nước, nhưng lúc rời khỏi nơi đây bà đã bỏ chiếc vò đựng nước lại. Bởi lẽ, nơi giếng nước bà đã gặp gỡ một nhân vật có khả năng giải thích những vấn nạn mà bà hằng ôm ấp bấy lâu nay. Nhân vật ấy có khả năng giúp bà thoả mãn mọi khát vọng cũng như mở ra cho bà một chân trời mới, một hướng đi mới. Chính qua cuộc đối thoại với người lữ hành, bà đã cảm nhận được niềm vui chân thật chan chứa trong tâm hồn. Vậy, trên hành trình xuyên qua sa mạc của Mùa Chay, Đức Giêsu cũng đang ngồi bên bờ giếng để mời gọi chúng ta đến kín múc nguồn nước hằng sống là chính Ngài. Chính nhờ nguồn nước hằng sống ấy giúp chúng ta không bao giờ khát nữa.

Cũng như người phụ nữ Sa-ma-ri, hôm nay chúng ta đang quây quần bên Thánh Thể Chúa Giê-su để gặp gỡ và lắng nghe lời Ngài nói. Và chúng ta đã mang chính nguồn sống mà chúng ta đã lãnh nhận là Chúa Giêsu Thánh Thể, để từ nguồn sống cao quí thiêng liêng này, chúng ta có thể hướng dẫn tha nhân đến với Ngài, hay ít ra là cố gắng thể hiện thực tại Nước Trời trong gia đình, lối xóm và chính trong môi trường chúng ta đang sống và làm việc. Một Nước Trời của công lý, hoà bình và là nơi tình yêu chân thật được thể hiện qua sự hiệp nhất, cảm thông, liên đới và sẻ chia. Có như thế nguồn sống và lương thực mà Đức Giê-su thông ban cho chúng ta trong bí tích Thánh Thể mới trở nên như những nguồn nước trong lành, mang sức sống mãnh liệt cho xã hội. Bởi vì xã hội còn đầy dẫy những ích kỷ, ghen ghét, hận thù, độc tài, mưu sát, hối lộ, tham nhũng và những hành động bất công như sự chà đạp lên các quyền lợi chính đáng của con người.

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, trong Mùa Chay và Phục Sinh sắp tới, lời giảng dạy của Chúa, nhất là cuộc khổ nạn và cái chết thảm thương của Ngài, đã nói lên quá đủ về sự nặng nề của tội lỗi, về sự cao trọng quý báu của ơn Chúa, nhất là ơn thánh hóa. Xin cho chúng con biết cố gắng tìm cách xác tín mạnh mẽ vào giá trị của ơn Chúa, hay đúng hơn của sức sống siêu nhiên thần linh mà Chúa đã ban; sau đó xin cho chúng con biết sống theo những gì mình đã xác tín và làm hết sức mình để bảo vệ và toả lan sự sống ấy cho những người chưa nhận biết nguồn nước hằng sống là chính Đức Giê-su Kitô. Amen.


Duyên Kỳ Ngộ

(Ga 4:5-42)

Đỗ Lực, OP

Có một tình yêu không bao giờ "vẹn câu thề", nhưng đã lưu lại những khúc ca chơi vơi như biển tình lai láng. 

Ngày mai em đi
Biển nhớ tên em gọi về
Gọi hồn liễu rũ lê thê
Gọi bờ cát trắng đêm khuya
Ngày mai em đi
Đồi núi nghiêng nghiêng đợi chờ
Sỏi đá trông em từng giờ
Nghe buồn nhịp chân bơ vơ… [1]

Trịnh Công Sơn đứng ở đâu để “gọi bờ cát trắng đêm khuya” mà thấy “sỏi đá trông em từng giờ” ? Riêng Chúa Giêsu đến bên bờ giếng Giacóp để gợi lên những giá trị lớn lao và sâu thẳm trong lòng thiếu phụ Samari. Không phải sỏi đá, nhưng ngay trong tâm hồn em, Thiên Chúa đang trông em từng giờ. Cuộc trao đổi thật kỳ thú và mở ra nhiều chân trời mới.

TRỞ LỰC PHẢI VƯỢT QUA

Hôm đó, giữa trưa hè nóng cháy, sau một chặng đường dài mỏi mệt, Chúa Giêsu đến bên bờ giếng Giacóp. Lúc này, chắc chắn các môn đệ nhìn Chúa không giống trên núi hiển dung chút nào. Như thế mới thật là “người” chứ ! Không còn cái gì trong thế giới loài người Chúa không chia sẻ ! Càng chiêm ngưỡng Chúa trong thực tại con người, càng thấy Người gần gũi trong những mỏng giòn, lo lắng, đau khổ.

Cơn đói khát càng làm tăng vẻ mệt mỏi. Các môn đệ vội vào chợ mua ít thực phẩm ăn trưa. Giữa lúc môn đệ ra đi, tình cờ một thiếu phụ đến kín nước và bắt gặp Chúa đang ngồi chờ ... Nếu là một chàng thanh niên Do thái khác, Chúa đã phải tránh ra một nơi, trước khi cô ấy đến bờ giếng. Nhưng không, Chúa vẫn ngồi đó như hẹn hò từ lâu.

Mở đầu câu truyện là một lời van xin: "Chị cho tôi xin chút nước uống !" (Ga 4:7) Thật ngược đời ! Chúa là nguồn của mọi nguồn suối lại phải xin một chút nước uống cho đỡ khát. Thiên Chúa không bao giờ đến với chúng ta như một ân nhân. Trước hết Người đến với chúng ta như một hành khất van xin tình yêu. Toàn bộ Tin Mừng đều cho thấy rõ điều đó. Chúa Giêsu không bao giờ có thái độ kênh kiệu như một người có quyền thống trị. Trước những người môn đệ như Giakêu và Phêrô, Chúa luôn tỏ ra nhỏ bé đợi chờ câu trả lời, van xin tình yêu: “Ông có muốn không ?”, “Anh có yêu mến tôi không ?”

Thực tế, trong mối tương giao nhân loại, một tình yêu đích thực bao giờ cũng phải van xin. Chính từ giây phút biết người ta cần mình, một sinh vật mới bắt đầu sống hay sống lại. Chúa Kitô luôn là người ăn mày tình yêu chúng ta. Từ thái độ khiêm tốn đó, Chúa đã đi sâu vào tâm hồn con người. Nhất là khi gặp phụ nữ Samari, một người ngoại bang và tội lỗi, Người cũng không thay đổi giọng điệu hành khất đó, dù biết rõ mình là một người Do thái. Có nhiều hàng rào ngăn cản phụ nữ này tiếp xúc với Chúa. Chính cô cũng lên tiếng cảnh giác Chúa điều đó. Nhưng Chúa vẫn cương quyết vượt qua những rào cản về xã hội và chủng tộc. Nhờ đâu ?

Trước hết, nhờ Thánh Linh, Chúa thấy tất cả những rào cản đó hoàn toàn bất công vì đã bóp nghẹt tự do và sự sống con người trong những truyền thống phi lý. Chúa tuyệt đối tự do, nên không thể chấp nhận những bất công đó. Chính vì muốn mạc khải mầu nhiệm Nhập thể sâu nhiệm, rao giảng sứ điệp tình yêu và lòng nhân hậu của Thiên Chúa, Ðức Giêsu đã được sai đến với mọi người nam nữ, nhất là những người nghèo khổ, bị tước đoạt, bị mất mát nhiều nhất.

Nếu Chúa Giêsu vượt qua mọi công ước và rào cản, chính vì trước mắt Người, không có ai bị loại trừ. Dù hoàn cảnh xã hội, đạo đức, hay tôn giáo, dù quá khứ có ra sao, ai cũng có thể gặp gỡ Chúa, miễn bằng lòng chấp nhận ân huệ Thiên Chúa đang hiện diện giữa tâm hồn và cuộc sống. Không có gì ngăn trở con người đến với Chúa.

Vấn đề chính yếu là làm sao gặp gỡ Thiên Chúa, khám phá ra tình yêu quảng đại của Người. Nhưng cuộc gặp gỡ này luôn đòi hỏi sự thật. Tình yêu không thủ đoạn. Không thể đóng kịch với Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã bắt vào cuộc đối thoại với thiếu phụ Samari và dựa trên những nền tảng sâu xa, vì Người bắt nàng phải nhìn sâu vào tâm hồn. Người nói: “Chị hãy gọi chồng chị, rồi trở lại đây." Người phụ nữ đáp: “Tôi không có chồng." (Ga 4:16.17) Qua cuộc trao đổi này, Chúa không muốn bắt tội để hạ nhục nàng, nhưng muốn giúp nàng lớn lên và biết mở tâm hồn đón nhận sự thật. Từ trước tới nay, nàng sống trong sự dối trá, nên hoàn toàn mất tự do. Dối trá trong cuộc đời tư riêng cũng như trong tương quan với Thiên Chúa và tha nhân. Sự thật không biết nghiêng về đâu.

Sự thật chưa xuất hiện vì những tranh chấp tôn giáo giữa Do thái và Samari hầu như bất tận. Họ tưởng có thể nhốt Thiên Chúa vào một nơi mình mong muốn. Người Do thái muốn Chúa chỉ ngự trong đền thờ Giêrusalem. Trái lại, người Samari muốn trên núi Garizim. Nơi thờ phượng, Kinh thánh, truyền thống đều khác với Do thái, đến nỗi người Samari bị khinh miệt như dân ngoại đạo và bị loại trừ. Thật là một bất công quá sâu xa.

Làm sao giải quyết mối bất công tệ hại này ? Nếu đứng về phía Do thái, chắc chắn Chúa sẽ bị người Samari căm thù và ghét bỏ. Nếu đứng về phía Samari, người Do thái sẽ không để Chúa yên. Không phải bị giằng co mà Chúa tìm lối thoát qua một lập luận siêu thực. Chúa đã bắt đầu cho nàng biết một sự thật cốt yếu: “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa” (Ga 4:11) trong tâm hồn chị, thì chính Thiên Chúa sẽ đến cư ngụ trong chị ! Ðó là điều cơ bản, là khởi điểm và đích điểm của toàn thể cuộc sống.

Như thế Chúa đã đánh thức ý thức chị về sự hiện diện của Thiên Chúa ngay trong tâm hồn mình và làm cho chị có thể chia sẻ sự hiện diện ấy với người khác bằng một việc thờ phượng đích thực. Người đánh thức chị về ân sủng đã có sẵn trong chị. Vấn đề không phải là nơi thờ phượng, nhưng là phải thờ phượng bằng cách nào. Thờ phượng trong Thần khí và sự thật nghĩa là thờ phượng nhờ ý thức Thánh Linh đang nằm sâu trong con người. Chính Thánh Linh làm cho chị có thể ca ngợi và tôn vinh Thiên Chúa. Thờ phượng đích thực là tôn kính Thiên Chúa bằng cách quảng đại cống hiến tất cả những gì mình đang có cho vị Ðại Ân Nhân của đời chị. Thế là một phép lạ đã xảy đến với chị. Nàng không thể đứng yên. Thoát khỏi những ràng buộc của tâm địa hẹp hòi, nàng đã lao mình vào vòng đam mê cứu rỗi toàn thể nhân loại. Thế là nàng đã chạy vô làng để loan báo cho dân chúng. Chúa đã ném lửa vào tâm hồn nàng. Toàn thể xóm làng đã cháy sáng trong Thần Khí và sự thật ! Từ nay dân làng sẽ trở thành những người thờ phượng đích thực. Tự do tôn giáo chính là đây ! Giêrusalem hay Garizim mất hẳn hấp lực. Từ nay trung tâm thu hút mọi người sẽ là chính Ðức Kitô, như dân làng tuyên xưng (x. Ga 4:42).

LÀM NGƯỜI TỰ DO

Nhờ gặp gỡ Chúa Kitô, thiếu phụ Samari đã trở thành con người tự do đích thực về ba mặtcá nhân, xã hội và tôn giáo. Nàng không còn mặc cảm làm người phụ nữ Samari nữa. Những tội lỗi quá khứ cũng không cầm chân được nàng. Nàng hoàn toàn làm người tự do, không còn lệ thuộc vào truyền thống, đẳng cấp xã hội và nơi chốn thờ phượng Thiên Chúa nữa. Từ nay nàng sẽ chỉ có một nơi thờ phượng duy nhất là trong Thần Khí và sự thật.

Bình thường, thiếu phụ Samari không dám xuất hiện trước đám đông, vì đời tư không được dân chúng tán thành.[2]Nhưng sau khi tiếp xúc với Chúa, tất cả con người nàng đã thay đổi. Nàng đã có đầy đủ sức mạnh để quy tụ mọi người về bên Chúa. Nàng nhận thức rõ ràng “trong và nhờ ÐứcGiêsu Kitô, Con Thiên Chúa làm người, thế giới và con người nắm bắt chân lý đích thực và toàn vẹn.”[3]Qua cuộc trao đổi, nàng mới nhận ra Thiên Chúa gần mình hơn mình tưởng. Người hiện diện ngay trong tâm hồn con người. “Càng sống hiệp thông với Thiên Chúa, con người càng được tăng cường sức mạnh và được giải thoát ngay trong bản tính đặc biệt và tự do nổi bật của họ.”[4]Nếu không nhờ Người, làm sao nàng có thể nhận ra hồng phúc được hầu truyện với Ðấng Thiên Sai (x. Ga 4:39) ? Làm sao tâm hồn nàng được đánh thức để cảm thấy Thiên Chúa đang hiện diện ? Làm sao nàng được giải thoát khỏi mặc cảm thân phận phụ nữ Samari ? Làm sao nhận ra cách thờ phượng đích thực, không lệ thuộc Giêrusalem và Garizim ? Từ nay Do thái không còn lấy lý do gì áp chế người Samari nữa ! Bất công sẽ chẳng còn !

Muốn đạt đến tình trạng tốt đẹp đó, cần phải nỗ lực nhìn mọi sự trong ánh sáng đức tin. Chỉ đức tin mới cho chúng ta thấy “trong Ðức Kitô, chính Thiên Chúa được mạc khải như một ngươi Cha và phú ban sự sống cho chúng ta. Trong Ðức Kitô, con người lãnh nhận mọi sự như ân huệ từ Thiên Chúa một cách tự do và khiêm tốn. Con người sở hữu vạn vật khi nhận biết và nhờ kinh nghiệm biết vạn vật đều lệ thuộc Thiên Chúa, phát xuất từ Thiên Chúa và hướng về Thiên Chúa.”[5]Phải mất bao nhiêu thời gian và công sức, Chúa Giêsu mới có thể thuyết phục thiếu phụ Samari nhận ra chân lý đó ? Một khi đã thấy rõ thực tại ấy, nàng cảm thấy như bay trên mọi thứ biên giới trần gian. Không còn ngăn trở nào khiến nàng chùn bước trong công cuộc rao giảng Chúa Kitô cho mọi người.

Khi đã nhận ra chân lý đó, những tranh chấp về con người, xã hội và tôn giáo không còn ý nghĩa gì nữa. Chỉ Thiên Chúa mới có quyền trên mọi sự. Chỉ Thiên Chúa mới liên kết tất cả. Sự lệ thuộc vào Thiên Chúa không phá hủy tự do của con người. Nói khác, “vì con người là một thụ tạo, nên không có gì mâu thuẫn giữa tự do và sự lệ thuộc vào Thiên Chúa.”[6]

Bởi thế, khi được mạc khải về sự thờ phượng đích thực trong Thần Khí và sự thật, thiếu phụ Samari mới cảm thấy hết căng thẳng và nhận ra giá trị cao cả nơi con người Chúa Giêsu và chính mình. Quả thực, tự do tôn giáo là “quyền sống trong sự thật của niềm tin và phù hợp với nhân phẩm cao cả.”[7]Hơn nữa, “sự tôn trọng nhân phẩm đòi người khác phải nhìn nhận chiều cạnh tôn giáo của con người.”[8]Khi áp đặt niềm tin của mình trên người khác, rõ ràng con người không còn tôn trọng “quyền tự do lương tâm và tự do tôn giáo là một trong những điều tốt đẹp nhất của mỗi người.”[9]

Chính vì lệ thuộc vào truyền thống và đền thờ cũng như Kinh thánh mỗi bên, cả Do thái lẫn Samari không thể thờ phượng Thiên Chúa trong Thần Khí và sự thật. Dựa vào lề luật và phong tục riêng, họ còn định đoạt cái gì tốt xấu cho chính mình và người khác. Trước khi gặp gỡ Chúa, chắc chắn thiếu phụ Samari và dân làng đã sống trong sự hậm hực vì bị người Do thái chèn ép, khinh thị và lên án như loài quỷ sứ xấu xa, mặc dù họ cùng chung một lời hứa về Ðấng Cứu Thế như dân Do Thái. Ðó là một bất công nghiêm trọng nhất.

KHÔNG HẸN MÀ HÒ

Nếu không gặp được Ðức Giêsu, thiếu phụ và dân làng Samari mãi mãi sống sau những ranh giới phân chia con người với nhau và với Thiên Chúa. Quanh năm suốt tháng, họ chỉ biết những nhu cầu thường ngày và niềm tin cũ kỹ. Rất may, khi gặp Chúa, họ đã uống được nước “đem lại sư sống đời đời” (Ga 4:14) khiến cuộc sống họ thăng hoa trong thần khí và sự thật.

Bốn thế kỷ sau khi Chúa ra đời, giống như thiếu phụ Samari, thánh Augustinô cuối cùng cũng tìm được mạch nước hằng sống đó. Trong cuốn sách “Tự thuật,” viết giữa khoảng năm 397 và 400, thánh nhân cho thấy “trong ánh sáng Thiên Chúa, nỗi khốn cùng của con người trở thành lời ca tụng và tri ân Thiên Chúa, vì Thiên Chúa yêu thương và chấp nhận chúng ta. Người biến đổi và nâng chúng ta lên tới Người.”[10]Khác với thiếu phụ Samari, thánh Augustinô không chỉ làm cho một làng gặp gỡ Ðấng Thiên Sai. Thực vậy, “khi qua đời, thánh Agustino đã không để lại gì, ngoại trừ thư viện có rất nhiều thủ bản quý hiếm gồm cả các bút tích của người, mà thánh nhân dặn dò phải bảo trì. Qua các bút tích đó thánh nhân vẫn sống động và hiện diện giữa chúng ta ngày nay và tín hữu thuộc mọi thời đại”[11]để mọi người có thể tìm thấy công lý đích thực cho cuộc sống.

Nếu không phát xuất từ Thiên Chúa và con tim nhân loại, công lý sẽ đánh mất sự ấm áp của tình người và trở thành vô tâm. Chỉ Chúa Kitô mới có thể công bố và thiết lập một nền công lý đem lại ấm no, hạnh phúc cho con người, vì Người là điểm gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người. Thế mới biết, vì không có Thần Khí và sự thật, bọn Pharisêu chỉ tập trung vào hình thức của tôn giáo và lề luật. Họ đã phá hủy công lý tận nền tảng.

Ngày nay, nhìn vào nền công lý trong xã hội Việt Nam, chúng ta thấy gì ? Công lý đó có đem lại hạnh phúc, ấm no cho toàn dân không ? Qua giọng điệu tiêu biểu của chế độ sau đây, chúng ta sẽ mới thấy công lý bị đảo lộn tới mức nào. “Ông Nguyễn Thế Doanh, Trưởng Ban Tôn giáo của Chính phủ,- cho rằng dưới chế độ Xã hội chủ nghĩa, tất cả đất đai đều quyền sở hữu của Nhà nước.”[12]Chỉ có xã hội chủ nghĩa mới có thứ công lý như vậy ! Công lý đã bị phá hủy hoàn toàn. Thử bỏ súng xuống xem nhà nước có dám lý luận như vậy không ? Có người còn nói nhà nước là cha mẹ nhân dân, nên có thể phân phát của cải cho ai tùy ý. Nếu đúng thế, “tại sao khi qui hoạch đất đai để mở rộng phố xá, đô thị, hay lập khu công nghiệp, chính phủ lại phải bồi thường giải tỏa làm chi ? Đất của Nhà nước thì cứ sử dụng như “đất chùa”, đâu cần phải thương lượng với ai !”[13]Thế mới biết khi nào cần, người ta có thể xoay đủ chiều để cho vừa cái bụng tham và củng chế độ bất công thối nát của mình, mặc cho dân oan đang đang rên siết khắp nơi.

Tóm lại, nhờ gặp gỡ Chúa Kitô, thiếu phụ Samari đã được giải oan. Từ mặc cảm tội lỗi, nàng đã tìm được một chỗ đứng trong tương quan với Thiên Chúa và tha nhân. Những bất công về xã hội và tôn giáo cũng biến mất, vì Chúa đã chỉ cho nàng biết đường lối thờ phượng đích thực chỉ có trong Thần Khí và sự thật. Gặp gỡ Chúa Kitô là gặp con đường giải thoát và đưa tới công lý thực sự trên mặt đất.

Gặp gỡ Chúa Kitô là tìm thấy công lý, “vì công lý xây dựng mối tương quan ngôi vị vững chắc giữa Thiên Chúa và dân Người qua Giao ước và Luật. Nhờ đó, chúng ta biết đường đi nước bước của Thiên Chúa và lòng từ bi của Người. Nhưng công lý cũng thiết lập những mối tương quan vững chắc đó giữa con người, dạy chúng ta biết kính trọng nhau và phát triển những mối tương quan chính đáng đưa đến hòa bình và hòa hợp. ”[14]Chúa Kitô xứng đáng là Ðấng cứu độ toàn thể nhân loại vì đã thiết lập được công lý trên trần gian.

Tuyên xưng Chúa Giêsu là Ðấng Cứu thế là đi gặp gỡ mọi người, và xác tín rằng họ đang được Chúa Giêsu tìm kiếm, yêu thương và cứu độ, bất chấp hoàn cảnh và lai lịch họ ra sao.

Tuyên xưng Chúa Giêsu là Ðấng Cứu thế là không bao giờ thất vọng về tình trạng thù nghịch và xung đột giữa chúng ta, nhưng tin tưởng Chúa Giêsu có thể bẻ gẫy mọi rào cản để quy tụ tất cả trong công lý và tình yêu duy nhất của Người.

Tuyên xưng Chúa Giêsu là Ðấng Cứu thế là chiêm ngắm Chúa trong hình dạng mệt mỏi, nhưng lại là Ðấng duy nhất có thể củng cố cuộc đời của những ai đang bị thương tổn, đổ vỡ và khai thác. Trên thập giá, một trong lời sau cùng cũng là lời đầu tiên Chúa đã ngỏ với thiếu phụ Samari: “Tôi khát !” Người sẽ ăn mày tình thương chúng ta. Nhưng từ trái tim Người, những mạch nước hằng sống tuôn ra cho tất những ai đang đói khát công lý và tình yêu trên mặt đất.

Lạy Chúa, ngày nay chúng con đang sống giữa bao nhiêu thành kiến và bất công. Xin Chúa sai Thần Khí đến để sự thật là Ðức Kitô đem lại sự giải thoát và hạnh phúc đích thực cho chúng con. Amen.

 Đỗ Lực, 24.02.2008

------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

[1]Trịnh Công Sơn., Biển nhớ.

[2]Bằng chứng nàng đã chọn trưa hè đổ lửa, lúc hoàn toàn vắng bóng người, để ra giếng kín nước.

[3]Toát Yếu Học Thuyết Xã Hội của Giáo Hội , 45.

[4]ibid.

[5]Ibid., 46.

[6]ibid., 136.

[7]ibid., 155.

[8]ibid., 553.

[9]ibid.

[10]Bênêđictô XVI, http://www.zenit.org/article-21838?l=english

[11]Bênêđictô XVI, http://www.vietcatholic.net/News/Html/52509.htm

[12]http://www.vietcatholic.net/News/Html/52532.htm

[13]Thiện Cẩm, http://www.vietcatholic.net/News/Html/52532.htm

[14]Pinckaers, S., The Pursuit of Happiness - God's Way – Living the Beatitudes, 2005:98.

 

Nguồn tin: GxPhanRang